Sự bùng nổ đá phiến của Mỹ có lẽ đã được phóng đại bởi Bộ Năng lượng Hoa Kỳ, theo một nghiên cứu mới của MIT cho thấy cơ quan này có lẽ đang quy tội quá mức sự gia tăng hoạt động khoan đá phiến cho những tiến bộ công nghệ.
“EIA đang giả định rằng năng suất của các giếng dầu riêng biệt sẽ tiếp tục tăng nhờ những cải tiến về công nghệ,” nhà nghiên cứu của MIT Justin B. Montgomery nói với tờ World Oil.
Thay vào đó, giá dầu trì trệ đã buộc các đại gia dầu chỉ khoan ở những khu vực dễ dàng tiếp cận, nằm chủ yếu ở Eagle Ford và lưu vực Permian ở Texas, và Bakken ở Bắc Dakota. Điều này đã dẫn đến sự gia tăng được cường điệu hóa về số lượng giếng hoạt động, và một câu chuyện được phóng đại về sự tăng trưởng trong ngành công nghiệp đá phiến, nghiên cứu này cho biết.
Margaret Coleman, người đứng đầu bộ phận phân tích sản xuất và thăm dò dầu, khí đốt và nhiên liệu sinh học của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, cho biết “Nghiên cứu đã chỉ ra những điểm hợp lý” và cung cấp những hiểu biết để phân tích chính xác hơn về dự báo nhiên liệu hóa thạch trong nước. Một phần của việc sai sót có thể được quy cho sự chênh lệch dữ liệu cung cấp cho đội ngũ của EIA, bà nói thêm.
Nhiều giếng đá phiến thiếu những phần dữ liệu quan trọng được theo dõi bởi nhóm nghiên cứu MIT, có nghĩa là các dự báo của EIA đã quá nhấn mạnh vào giả định địa chất và vốn cũng như phát triển công nghệ để ước tính tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp đá phiến. Tất nhiên, đã có một số tiến bộ trong công nghệ đầu khoan, phần mềm bản đồ, và fracking thủy lực, nhưng đó chỉ là một phần của câu đố.
Ba năm giá dầu thấp đã buộc các ông lớn trong ngành dầu khí trên toàn thế giới sáng tạo để giảm bớt chi phí và tránh phá sản. Việc sa thải hàng loạt và những văn phòng trống người đã đẩy các công ty đa quốc gia hoạt động trên một chế nguồn nhân lực gói gọn hơn, sử dụng robot và kết hợp nhiều công việc lại để giữ cho các công ty tiếp tục hoạt động.
Tuy nhiên, câu chuyện của sự bùng nổ đá phiến Mỹ lại khác. Sự sụp đổ ban đầu của nó có mối tương quan sâu sắc với sự lao dốc của giá trong năm 2014, nhưng đà tăng của nó vẫn tiếp tục bất chấp những nỗ lực của cộng đồng sản xuất dầu mỏ toàn cầu để kiềm chế sản lượng quốc tế nhằm chiến đấu với tình trạng thừa cung. Giá một thùng dầu trong phạm vi 40- 50 USD vẫn cho sản xuất đá phiến đủ lợi nhuận để khoan, ngay cả khi các nhà sản xuất nước ngoài phải chật vật với hoạt động khoan ngoài khơi và trên bờ đắt đỏ.
Sản lượng tại Bakken đã tăng gấp ba lần từ năm 2012 đến giữa năm 2015, dữ liệu MIT cho thấy. Nhưng sự gia tăng này liên quan đến việc từ bỏ có hệ thống những nơi khó khoan của các ông lớn để ưu ái cho những nơi hấp dẫn hơn. Các công ty đá phiến của Mỹ không được phép xuất khẩu dầu thô của họ trước năm 2016. Điều này đồng nghĩa rằng sản lượng dầu từ Mỹ đã không góp phần trực tiếp đến tình trạng thừa cung toàn cầu. Tuy nhiên, sản xuất mới đã làm tăng tồn kho và giảm quy mô cũng như sự thường xuyên của các đơn hàng dầu thô từ các nhà máy lọc dầu Mỹ. Chẳng bao lâu nữa, những mục tiêu dễ đạt được sẽ đã được chọn.
Sự suy thoái đã bắt đầu tại lưu vực Marcellus ở vùng Đông Bắc và ở Permian. Những giếng dầu tại hai vị trí khoan đá phiến đầu tiên đã mất từ 10 đến 20 phần trăm trong tổng sản lượng kể từ chạm đỉnh vào mùa thu năm ngoái, nhưng giá dầu đã và đang theo quỹ đạo đi lên trong gần cả năm 2017, nên có thể vẫn duy trì lợi nhuận cho ít nhất là vài năm tới.
Nguồn tin: xangdau.net
Trả lời