Phiên giao dịch 28/3 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 29/3 giờ VN), giá dầu tăng khá mạnh; kim loại cơ bản cũng tăng; nhưng vàng và nhiều nông sản giảm giá. Chỉ số giá 19 hàng hóa nguyên liệu CRB của Reuters tăng phiên đầu tiên trong vòng 6 phiên.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau báo cáo cho thấy hoạt động sản xuất dầu của Libya đã bị gián đoạn, làm dịu bớt lo ngại về tình trạng nguồn cung toàn cầu dư thừa.
Giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 5/2017 trên sàn New York tăng 0,64 USD lên 48,37 USD/thùng, dầu Brent giao cùng kỳ hạn trên sàn London cũng tăng 0,58 USD lên 51,33 USD/thùng vào cuối phiên giao dịch tại London.
Các phương tiện truyền thông cho biết sản xuất dầu ở các mỏ dầu phía Tây Libya đã bị ảnh hưởng bởi các phe phái vũ trang, làm giảm khoảng 1/3 sản lượng dầu của nước này.
Theo các nhà phân tích, thông tin trên đã làm dịu bớt những lo ngại về nguồn cung toàn cầu dư thừa và góp phần hỗ trợ giá dầu.
Tuy nhiên, mặt hàng này vẫn chịu sức ép từ sự gia tăng sản lượng dầu của Mỹ và những hoài nghi về nỗ lực cắt giảm sản lượng dầu của các nước do
Tổ chức Các nước xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) khởi xướng đối với việc tái cân bằng thị trường năng lượng.
Các điều kiện cơ bản của thị trường dầu vẫn còn mong manh khi Mỹ tiếp tục đẩy mạnh sản lượng khai thác, bất chấp những nỗ lực kiềm chế nguồn cung từ OPEC nhằm giúp giá “vàng đen” phục hồi.
Ngân hàng Barclays dự báo rằng sản lượng dầu thô của Mỹ sẽ leo lên mức cao nhất nhiều thập kỷ vào tháng 12 năm nay, thậm chí có thể tương đương với mức “đỉnh” đạt được trong năm 1970.
Kể từ giữa năm 2016, sản lượng dầu của Mỹ đã tăng 8,3%, lên 9,13 triệu thùng/ngày.
Trong tháng 4/2015 sản lượng dầu của nước này đã từng “vọt” lên 9,7 triệu thùng/ngày – mức được coi là cao nhất kể từ tháng 5/1971.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm nhẹ khỏi mức đỉnh của một tháng, trong bối cảnh đồng USD và thị trường chứng khoán đều đi lên.
Giá vàng giao ngay đã giảm 0,3% xuống 1.249,56 USD/ounce, trong phiên có lúc giá chạm mức cao nhất trong vòng 1 tháng là 1.261,03 USD/ounce tại phiên 27/3 trước đó; vàng giao sau giảm 0,01% xuống chốt phiên tại 1.255,6 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD – được coi là thước đo “sức khỏe” của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – phiên này đã tăng vượt khỏi mức thấp nhất trong vòng bốn tháng qua.
Việc đồng USD mạnh lên khiến vàng, vốn được định giá bằng đồng bạc xanh, trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác.
Các nhà đầu tư đang chờ đợi các báo cáo về tình hình nền kinh tế Mỹ trong tuần này, bao gồm báo cáo về tổng sản phẩm quốc nội và số đơn xin trợ cấp thất nghiệp vào ngày thứ Năm (30/3), bên cạnh báo cáo về thu nhập và chi tiêu cá nhân vào hôm thứ Sáu (31/3). Những bản báo cáo này sẽ giúp thị trường có thêm thông tin về lộ trình tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Giá vàng luôn nhạy cảm với các động thái điều chỉnh lãi suất của Mỹ, bởi lãi suất tăng sẽ giúp đồng USD mạnh lên nhưng lại khiến sức hấp dẫn của các tài sản an toàn như vàng giảm đáng kể. Giới doanh nhân tin rằng Fed sẽ tăng lãi suất từ 1% lên 1,25% trong cuộc họp chính sách diễn ra vào tháng Sáu tới.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 5/2017 đã tăng 0,8% lên chốt phiên tại 18,252 USD/ounce. Giá bạch kim giao tháng 4/2017 lại giảm 1,2% và khép phiên tại 957,4 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica xuống mức thấp nhất gần 3 tháng, robusta cũng giảm về cuối phiên sau khi tăng đầu phiên.
Robusta giao tháng 5 giá giảm 18 USD hay 0,8% xuống 2.168 USD/tấn. Các thương gia cho biết xu hướng giá đang điều chỉnh từ phiên giao dịch trước, khi giá tăng do hoạt động mua vào, nhưng không thu hút được giới đầu tư lâu dài.
“Vì giá vẫn tương đối cao, chúng tôi cho rằng các nhà sản xuất đã bán ra khá nhiều, có nghĩa là nguồn cung dần khan hiếm”, Reuters dẫn lời một thương gia cho biết. Song áp lực thiếu cung có thể sẽ giảm bớt khi Indonesia bắt đầu thu hoạch vào tháng tới.
Arabica giao tháng 5 giá giảm 0,35 US cent hay 0,3% xuống 1,3885 USD/lb. “Vẫn còn nguồn cung arabica từ Peru và Trugn Mỹ, trong khi vụ thu hoạch arabica của Brazil sắp tới có sản lượng dự báo cao”, Jack Scoville, phó chủ tịch Price Futures Group ở Chicago cho biết.
Với mặt hàng đường, giá cũng giảm. Đường thô giao tháng 5 giá giảm 0,14 US cent hay 0,79% xuống 17,56 US cent/lb, sau khi hoạt động mua đầu cơ đẩy giá lên 18,17 US cent lúc đầu phiên. Tổng số hợp đồng mở tăng lên 802.601 lô trong ngày 27/3, mức cao nhất kể từ 15/2 và là phiên thứ 8 tăng giá.
Đường trắng giao tháng 5 giá giảm 2,6 USD hay 0,5% xuống 495,30 USD/tấn.
Với ngũ cốc, giá lúa mì hồi phục từ mức thấp nhất 2 tháng rưỡi mặc dù dự báo các khu vực trồng lúa mì ở Mỹ sẽ có nhiều mưa. Ngô và đậu tương cũng tăng giá trước khi USD công bố báo cáo mới dự báo về cung –cầu.
Hàng hóa |
ĐVT |
Giá |
/- |
/- (%) |
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
48,37 |
0,64 |
0,5 1% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
51,33 |
0,58 |
0,58% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
35.100,00 |
320,00 |
0,92% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
3,09 |
-0,01 |
-0,36% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
163,18 |
-0,31 |
-0,19% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
152,19 |
0,52 |
0,34% |
Dầu khí |
USD/tấn |
459,50 |
-1,75 |
-0,38% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
46.410,00 |
560,00 |
1,22% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1.261,40 |
-1,40 |
-0,19% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4.449,00 |
3,00 |
0,07% |
Bạc New York |
USD/ounce |
18,10 |
-0,15 |
-0,83% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
64,10 |
0,10 |
0,16% |
Bạch kim giao ngay |
USD/t oz. |
953,08 |
-1,52 |
-0,16% |
Palladium giao ngay |
USD/t oz. |
791,97 |
-1,28 |
-0,16% |
Đồng New York |
US cent/lb |
266,55 |
-1,05 |
-0,39% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
5.873,00 |
113,00 |
1,96% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
1.944,00 |
14,00 |
0,73% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.823,00 |
63,00 |
2,28% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
20.035,00 |
535,00 |
2,74% |
Ngô |
US cent/bushel |
357,50 |
-0,25 |
-0,07% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
424,75 |
-0,25 |
-0,06% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
231,75 |
-3,25 |
-1,38% |
Gạo thô |
USD/cwt |
9,79 |
0,04 |
0,36% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
970,25 |
-1,75 |
-0,18% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
314,80 |
-0,50 |
-0,16% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
32,49 |
0,02 |
0,06% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
495,60 |
-0,10 |
-0,02% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
2.129,00 |
-21,00 |
-0,98% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
138,85 |
-0,35 |
-0,25% |
Đường thô |
US cent/lb |
17,56 |
-0,14 |
-0,79% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
170,50 |
-4,50 |
-2,57% |
Bông |
US cent/lb |
76,94 |
0,06 |
0,08% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
— |
— |
— |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
369,20 |
-3,40 |
-0,91% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
247,10 |
6,20 |
2,57% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
1,58 |
0,02 |
1,21% |
Nguồn tin: Vinanet
Trả lời