Thị trường hàng hóa thế giới tuần qua biến động mạnh do các yếu tố chính trị và tỷ giá, cùng sự tác động của thời tiết tới một số loại nông sản.
Năng lượng: Giá dầu WTI giảm, dầu Brent tăng
Giá dầu thô thế giới tiếp tục hồi phục trong phiên cuối tuần, là phiên thứ 2 liên tiếp tăng sau mấy phiên giảm trước đó.
Đóng cửa phiên cuối tuần, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 9 tăng 1,42 USD (3%) lên 48,51 USD/thùng so với phiên trước đó; dầu Brent giao tháng 10 tăng 1,69 USD (3,3%) lên 52,72 USD/thùng. Đồng USD yếu đi và số giàn khoan của Mỹ giảm giúp giá dầu tăng trong phiên này.
Tuy nhiên, do giảm mạnh mấy phiên đầu tuần nên tính chung cả tuần, giá dầu WTI vẫn giảm 0,3%, còn dầu Brent tăng 1,5%.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết lượng dầu dự trữ của nước này trong tuần tính đến ngày 11/8 giảm 8,95 triệu thùng xuống còn 466,5 triệu thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 1/2016, đánh dấu tuần sụt giảm thứ bảy liên tiếp.
Công ty Baker Hughes cho biết các doanh nghiệp năng lượng Mỹ đã giảm 5 giàn khoan dầu xuống 763 giàn khoan trong tuần tính đến ngày 18/8, tuần giảm thứ hai trong ba tuần qua. Một số dấu hiệu về sự thắt chặt nguồn cung đã bắt đầu xuất hiện tại Mỹ, quốc gia tiêu thụ dầu mỏ lớn nhất thế giới. Thống kê cho thấy dự trữ dầu thương mại của Mỹ đã giảm 13% so với mức đỉnh của tháng Ba và rơi xuống dưới các mức của năm 2016.
Tuy nhiên, chuyên gia Tariq Zahir, thuộc Tyche Capital Advisors, cảnh báo rằng các nhân tố chủ chốt tác động đến thị trường vẫn bất lợi với giá “vàng đen”, khi mùa du lịch của Mỹ sắp kết thúc.
Nhà phân tích William O’Loughlin, thuộc Rivkin Securities (Australia) nhận định sự giảm sút lượng dự trữ dầu cho thấy thỏa thuận cắt giảm sản lượng của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đã phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, với mức giá hiện nay của “vàng đen”, thị trường vẫn hoài nghi về triển vọng tái cân bằng cung-cầu trong dài hạn.
Kim loại quý: Giá kết thúc tuần ít thay đổi dù biến động mạnh trong tuần
Phiên giao dịch cuối tuần, giá vàng có thời điểm vọt lên mức cao nhất 9 tháng, giữa bối cảnh diễn biến mới trên chính trường Mỹ và các vụ tấn công tại Tây Ban Nha thúc đẩy hoạt động mua vào vàng. Đóng cửa phiên giao dịch, vàng giao ngay ở mức giá 1.287,95 USD/ounce, sau khi có lúc lên tới 1.300,80 USD/ounce, cao nhất kể từ ngày 9/11; vàng giao tháng 12/2017 giữ ở mức 1.291,60 USD/ounce.
Bất ổn địa chính trị có chiều hướng gia tăng có lợi cho thị trường vàng, tuy nhiên tính chung cả tuần, giá kim loại quý này gần như không có nhiều thay đổi.
Ngày 18/8, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã quyết định cách chức Cố vấn chiến lược của Nhà Trắng Steve Bannon, nhân vật chủ chốt giúp ông Trump giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2016. Ông Bannon đã có những tranh cãi với các cố vấn cấp cao khác và thành viên gia đình ông Trump trong vài tháng qua.
Các chuyên gia nhận định giới giao dịch trên thị trường đang tỏ ra hoài nghi về khả năng thúc đẩy các chính sách của ông Trump. Trong bối cảnh này, thị trường vàng vẫn đang đi tìm định hướng. RBC Capital Markets dự báo giá vàng sẽ tiếp tục giao dịch trong biên độ 1.215-1.290 USD/ounce.
Một số yếu tố đã hỗ trợ tích cực cho giá vàng trong tuần qua.
Nhu cầu mua vàng như một nơi trú ẩn an toàn trong thời kỳ bất ổn cũng được thúc đẩy, sau khi ngày 17/8, Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in cảnh báo Triều Tiên sẽ “vượt qua giới hạn đỏ” nếu lắp đầu đạn hạt nhân vào tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM). Theo kế hoạch, bắt đầu từ ngày 21/8 tới, Hàn Quốc và Mỹ sẽ tiến hành các cuộc tập trận chung Hàn – Mỹ mang tên “Người bảo vệ tự do Ulchi”.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố biên bản cuộc họp chính sách tháng 7/2017. Theo biên bản cuộc họp chính sách ngày 25-26/7 của Fed, các quan chức ngân hàng này vẫn có ý e ngại về tình hình lạm phát thấp gần đây với một số ý kiến cho rằng Fed vẫn có thể “kiên nhẫn”, tạm dừng tăng lãi suất cho đến khi số liệu cho thấy tình trạng đó chỉ là tạm thời.
Chuyên gia Miguel Perez-Santalla, thuộc Heraeus Metal Management tại New York, nhận định khả năng Fed chưa nâng lãi suất cho đến năm tới và đồng euro mạnh là hai nhân tố hỗ trợ giá vàng trong phiên này.
Nông sản: Giá cà phê arabica xuống thấp nhất 5 tuần
Hoạt động bán tháo đã ép giá cà phê arabica giảm mạnh, Phiên cuối tuần, arabica giao tháng 12 giảm 0,35 US cent tương đương 0,3% xuống 1,317 USD/lb, sau khi có lúc xuống chỉ 1,3035 USD, thấp nhất kể từ 13/7. Robusta giao tháng 11 trái lại tăng 47 USD tương đương 2,3% lên 2.101 USD/tấn, thoát khỏi mức thấp nhất 8 tuần là 2.030 USD/tấn của phiên trước đó.
Tuy nhiên, nhu cầu cà phê physical nhìn chung yếu, dự trữ của các nhà rang xay còn nhiều và hoạt động bán tháo arabica từ phía các nhà đầu cơ để mua robusta đang chi phối thị trường.
Với mặt hàng đường, giá đường thô giao tháng 10 phiên cuối tuần tăng 0,12 US cent tương đương 0,90% lên 13,41 US cent/lb, thoát khỏi mức thấp nhất 7 tuần là 12,92 US cent của phiên trươc đó. Đường trắng giao tháng 10 tăng 1 USD tương đương 0,3% lên 370,60 USD/tấn.
Tổ chức Đường Quốc tế (ISO) dự báo dư thừa đường toàn cầu niên vụ 2017/18 sẽ đạt 4,6 triệu tấn, sau khi thiếu hụt 3,9 triệu tấn vụ trước đó.
Đồng real Brazikl mạnh lên và mưa cuối tuần ở Brazil khuyến khích các nhà máy sản xuất ethanol hơn là đường, và điều này hỗ trợ giá.
Hàng hóa |
ĐVT |
12/8 |
19/8 |
19/8 so với 18/8 |
19/8 so với 18/8 (%) |
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
48,82 |
48,51 |
1,42 |
3,02% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
52,10 |
52,72 |
1,69 |
3,31% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
34.400,00 |
34.680,00 |
1.130,00 |
3,37% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
2,98 |
2,89 |
-0,04 |
-1,23% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
161,30 |
162,40 |
3,71 |
2,34% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
163,46 |
162,04 |
3,84 |
2,43% |
Dầu khí |
USD/tấn |
482,50 |
473,00 |
7,25 |
1,56% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
49.390,00 |
49.210,00 |
1.160,00 |
2,41% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1.294,00 |
1.291,60 |
-0,80 |
-0,06% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4.500,00 |
4.501,00 |
-10,00 |
-0,22% |
Bạc New York |
USD/ounce |
17,07 |
17,00 |
-0,05 |
-0,31% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
59,50 |
59,60 |
-0,10 |
-0,17% |
Bạch kim giao ngay |
USD/t oz. |
985,00 |
977,91 |
3,36 |
0,34% |
Palladium giao ngay |
USD/t oz. |
894,20 |
924,20 |
1,75 |
0,19% |
Đồng New York |
US cent/lb |
291,20 |
296,15 |
0,05 |
0,02% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
6.411,00 |
6.486,00 |
-4,00 |
-0,06% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.042,50 |
2.062,00 |
-14,00 |
-0,67% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.896,50 |
3.124,00 |
62,00 |
2,02% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
20.305,00 |
20.240,00 |
40,00 |
0,20% |
Ngô |
US cent/bushel |
374,75 |
365,75 |
1,50 |
0,41% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
467,00 |
442,50 |
1,75 |
0,40% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
263,25 |
258,75 |
0,75 |
0,29% |
Gạo thô |
USD/cwt |
12,50 |
12,15 |
0,03 |
0,21% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
945,00 |
937,75 |
4,75 |
0,51% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
304,20 |
300,50 |
0,50 |
0,17% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
33,99 |
33,97 |
0,42 |
1,25% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
506,90 |
506,70 |
6,70 |
1,34% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
1.977,00 |
1.878,00 |
9,00 |
0,48% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
143,85 |
131,70 |
-0,35 |
-0,27% |
Đường thô |
US cent/lb |
13,20 |
13,41 |
0,12 |
0,90% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
136,10 |
136,40 |
-3,00 |
-2,15% |
Bông |
US cent/lb |
68,25 |
67,28 |
0,37 |
0,55% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
— |
— |
— |
— |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
365,40 |
366,30 |
-5,00 |
-1,35% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
213,40 |
216,70 |
0,50 |
0,23% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
1,58 |
1,49 |
0,00 |
-0,20% |
Nguồn tin: Vinanet.vn
Trả lời