Phiên giao dịch 10/10 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 11/10 giờ VN), giá hầu hết các mặt hàng chủ chốt đồng loạt tăng.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng sau khi Saudi Arabia thông báo sẽ cắt giảm xuất khẩu dầu vào tháng 11/2017 và khả năng sản lượng dầu mỏ của Mỹ tại Vịnh Mexico có thể giảm tới 1,49 triệu thùng/ngày do ảnh hưởng của cơn bão Nate cũng giúp đẩy giá dầu đi lên.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 11/2017 trên sàn New York tăng 1,34 USD lên 50,92 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 12/2017 trên sàn London tăng 0,82 USD lên 56,61 USD/thùng.
Andrew Lipow, chủ tịch Hiệp hội Lipow Oil, cho biết Saudi Arabia sẽ cắt giảm nguồn cung dầu khoảng 560.000 thùng/ngày vào tháng 11/2017.
OPEC đang đi đầu trong nỗ lực cắt giảm sản lượng nhằm chấm dứt tình trạng dư cung dầu mỏ, nguyên nhân dẫn tới đà giảm giá dầu suốt hơn ba năm qua.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), Nga và một số nhà sản xuất dầu khác đã cắt giảm sản lượng khoảng 1,8 triệu thùng mỗi ngày kể từ đầu năm 2017. Theo Tổng Thư ký OPEC, Mohammad Barkindo, các dấu hiệu gần đây cho thấy dự trữ dầu thô toàn cầu có xu hướng giảm bớt, trong khi lượng nhiên liệu tiêu thụ gia tăng – điều góp phần thúc đẩy quá trình tái cân bằng thị trường.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng lên mức cao nhất gần 2 tuần do đồng USD yếu đi và những căng thẳng chính trị tại Tây Ban Nha và CHDCND Triều Tiên.
Tuy nhiên, kỳ vọng của thị trường về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục nâng lãi suất đã phần nào chặn bớt đà tăng của vàng.
Trên thị trường New York (Mỹ), giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.289,81 USD/ounce) trong phiên có lúc giá chạm mức cao nhất kể từ cuối tháng 9/2017 là 1.294,25 USD/ounce. Hợp đồng giao tháng 12/2017 tăng 0,7% lên 1.293,8 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD – được coi là thước đo “sức khỏe” của đồng bạc xanh so với giỏ các đồng tiền chủ chốt khác – phiên này giảm 0,56% xuống 93,2. Chỉ số đồng USD đã để mất điểm ba phiên liên tiếp.
Các nhà phân tích nhận định tâm lý lo ngại về tình hình địa chính trị căng thẳng tại Tây Ban Nha và Triều Tiên đã thúc đẩy hoạt động mua vào các tài sản an toàn như vàng vào đầu phiên giao dịch. Song yếu tố kiềm giữ giá vàng trong phiên 10/10 là những đồn đoán về việc Fed sẽ nâng lãi suất thêm một lần nữa vào tháng 12 tới. Vàng rất nhạy cảm với động thái tăng lãi suất, do điều này khiến việc nắm giữ các tài sản không sinh lời như vàng tăng lên, trong khi làm tăng giá USD – đồng tiền mà vàng được định giá theo.
Tổng giá trị đơn hàng mới đặt với các nhà sản xuất tại Mỹ tăng lên 1,2% so với mức 1% dự báo và – 3,3% thực tế kỳ trước. Các nhà quản lý thu mua của Mỹ tăng niềm tin vào các điều kiện kinh doanh tại Mỹ từ mức 58.8 điểm kỳ trước lên 60.8 điểm kỳ này. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 4,2% so với mức 4,4% dự báo và thực tế kỳ trước. Tuy nhiên, số lao động có việc làm không bao gồm ngành nông nghiệp nước này giảm 33.000 lao động, đây là chỉ số hàng đầu về chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ, chiếm phần lớn trong tổng thể hoạt động kinh tế.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên này tăng 1,3% lên 17,16 USD/ounce, sau khi đã có lúc chạm mức cao nhất kể từ ngày 20/9 là 17,248
USD/ounce. Giá bạch kim cũng tăng 2,3% lên 932,6 USD/ounce phiên này. Vào đầu phiên, giá bạch kim đã tăng lên mức cao nhất trong vòng hai tuần là 933,9 USD/ounce.
Ngân hàng Standard Chartered (Mỹ) nhận định rằng giá bạc còn có thể tăng lên cao hơn nữa do sản lượng khai thác kim loại quý này không tăng, trong lúc nhu cầu của thị trường tiếp tục cao.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô tăng 0,17 US cent tương đương 1,2% lên 14,17 US cents/lb sau số liệu cho thấy ép mía ở Brazil giảm hơn dự đoán trong nửa cuối tháng 9.
Đường trắng giao tháng 12 tăng 1,1 USD tương đương 0,3% lên 372,80 USD/tấn.
Cà phê cũng tăng giá, với arabica giao tháng 12 tăng 0,05 US cent tương đương 0,04% lên 1,31 USD/lb, sau khi có lúc đạt mức cao nhất 2 tuần 1,327 USD.
Cà phê robusta giao tháng 11 tăng 4 USD tương đương 0,2% lên 2.007 USD/tấn.
Hàng hóa |
ĐVT |
3/10 |
/- |
/- (%) |
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
51,92 |
1,35 |
1,09% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
56,61 |
0,82 |
1,01% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
37.800,00 |
490,00 |
1,31% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
2,89 |
0,00 |
0,03% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
159,49 |
0,34 |
0,21% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
176,68 |
0,19 |
0,11% |
Dầu khí |
USD/tấn |
525,25 |
-0,75 |
-0,14% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
52.690,00 |
480,00 |
0,92% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1.289,80 |
4,00 |
0,31% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4.646,00 |
1,00 |
0,02% |
Bạc New York |
USD/ounce |
17,14 |
-0,07 |
-0,39% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
61,80 |
0,00 |
0,00% |
Bạch kim giao ngay |
USD/t oz. |
930,20 |
1,75 |
0,19% |
Palladium giao ngay |
USD/t oz. |
937,01 |
0,61 |
0,07% |
Đồng New York |
US cent/lb |
305,70 |
-0,35 |
-0,11% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
6.760,00 |
94,00 |
1,41% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.163,00 |
-10,50 |
-0,48% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
3.279,00 |
46,00 |
1,42% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
20.725,00 |
-45,00 |
-0,22% |
Ngô |
US cent/bushel |
348,50 |
-0,75 |
-0,21% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
435,00 |
-0,25 |
-0,06% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
250,25 |
0,75 |
0,30% |
Gạo thô |
USD/cwt |
12,12 |
0,10 |
0,79% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
966,25 |
0,25 |
0,03% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
316,10 |
-0,10 |
-0,03% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
33,15 |
0,04 |
0,12% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
494,80 |
-0,40 |
-0,08% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
2.045,00 |
37,00 |
1,84% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
131,00 |
0,05 |
0,04% |
Đường thô |
US cent/lb |
14,17 |
0,17 |
1,21% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
161,25 |
3,75 |
2,38% |
Bông |
US cent/lb |
69,10 |
0,15 |
0,22% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
— |
— |
— |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
407,30 |
-6,40 |
-1,55% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
203,20 |
1,40 |
0,69% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
1,42 |
0,01 |
0,35% |
Nguồn tin: vinanet.vn
Trả lời