Phiên giao dịch 9/5 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rang sáng 10/5 giờ VN), giá dầu tăng mạnh, tuy nhiên nhiều hàng hóa khác giảm.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng mạnh sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố sẽ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dàu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 6/2018 trên sàn New York tăng 2,08 USD (3%) lên 71,14 USD/thùng, mức cao nhất trong vòng hơn 3 năm rưỡi; dầu Brent giao tháng 7/2018 trên sàn London tăng 2,36 USD (3,2%) lên 77,21 USD/thùng.
Tổng thống Mỹ Donald Trump lặp lại quan điểm cứng rắn của mình về thỏa thuận hạt nhân Iran và cho rằng nó đã không ngăn cản được Iran phát triển vũ khí hạt nhân hoặc hỗ trợ chủ nghĩa khủng bố trong khu vực. Do đó, ông Trump không chỉ quyết định từ bỏ thỏa thuận hạt nhân được ký kết giữa Iran và 6 cường quốc (Anh, Pháp, Mỹ, Trung Quốc, Nga và Đức) hồi năm 2015 mà còn tuyên bố sẽ áp lệnh trừng phạt ở “mức cao nhất” đối với thành viên OPEC này, khiến các nhà đầu tư lo ngại nguy cơ xung đột gia tăng thêm nữa ở Trung Đông và nguồn cung dầu sẽ thực sự khan hiếm.
Ngày 9/5, Nhà Trắng cho biết Tổng thống Mỹ Donald Trump đang chuẩn bị áp đặt các biện pháp trừng phạt mới nhằm vào Iran để đảm bảo Tehran không phát triển vũ khí hạt nhân. Người phát ngôn Nhà Trắng Sarah Sanders nêu rõ: “Chúng tôi quyết tâm 100% trong việc đảm bảo Iran không sở hữu vũ khí hạt nhân. Mỹ sẽ tiếp tục gây sức ép tối đa và áp đặt nhiều biện pháp trừng phạt nghiêm khắc nhằm vào Iran. Các lệnh trừng phạt trước thời điểm ký kết thỏa thuận hạt nhân Iran sẽ được khôi phục. Bên cạnh đó, chúng tôi chuẩn bị đưa ra những biện pháp trừng phạt mới, sớm nhất là vào tuần sau”. Nhiều nước châu Âu hiện đã lên tiếng khẳng định ủng hộ duy trì thỏa thuận hạt nhân mang tính bước ngoặt ký kết với Iran đồng thời nhấn mạnh sẽ làm mọi điều để tìm cách bảo vệ khuôn khổ đa phương này.
Nếu không có một thỏa thuận thay thế khác, chắc chắn Mỹ sẽ tiến hành tái áp lệnh trừng phạt đối với Iran sau 180 ngày kể từ 9/5/2018.
Giá dầu càng được đà tăng sau khi Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết dự trữ dầu thô của nước này đã giảm 2,2 triệu thùng xuống 433,8 triệu thùng trong tuần trước (kết thúc vào 4/5). Nhập khẩu dầu thô ròng trong tuần trước cũng giảm 955.000 thùng/ngày xuống 5,4 triệu thùng/ngày, mức thấp nhất kể từ giữa tháng Hai.
Các nhà phân tích nhận định, việc Mỹ tái trừng phạt Iran có thể khiến cung dầu thô Iran giảm khoảng 200.000 đến 1 triệu thùng/ngày. Các bộ trưởng Saudi Arabia và Kuwait vừa thông báo sẽ phối hợp chặt chẽ với các thành viên khác của OPEC và các nước ngoài OPEC bù lấp vào chỗ giảm cung dầu thô từ Iran để làm giảm bớt tác động của việc thiếu cung dầu sau khi Mỹ rút lui khỏi thỏa thuận hạt nhân.
Trong phiên vừa qua, gía xăng Mỹ cũng tăng mạnh lên 2,1701 USD/gallon, cao nhất kể từ khi siêu bão Harvey đẩy giá tăng vọt vào tháng 8 năm ngoái; trong khi dầu sưởi Mỹ tăng lên 2,2258 USD/gallon, cao nhất kể từ tháng 2/2015.
Trái với dầu, than đá giảm trở lại sau khi đạt mức cao nhất 2 tháng trong phiên trước. Kết thúc phiên vừa qua trên sàn Đại Liên (Trung Quốc), giá than cốc ở mức 1.985 NDT/tấn, trông phiên có lúc giá loại này giảm 2,7% xuống 1.937 NDT/tấn; than luyện cốc cũng giảm 1,7% xuống 1.228,5 NDT/tấn. Mặc dù vậy, Hiệp hội Than Thế giới (WCA) nhận định giá than năm nay sẽ duy trì ở mức tốt bởi nhu cầu của Trung Quốc ổn định và tăng ở Ấn Độ. Ấn Độ dự báo sẽ tăng nhập khẩu than do nhu cầu mạnh lên từ lĩnh vực phát điện và sản lượng trong nước ít hơn dự kiến. Chính phủ Indonesia năm 2018 cũng hạn chế sản xuất than ở mức tối đa 485 triệu tấn, trong đó 25% sẽ được tiêu thụ nội địa.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm sau khi ông Trump tuyên bố rút nước Mỹ ra khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran. Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng càng gây thêm sức ép lên thị trường vàng.
Giá vàng giao ngay hạ 0,1% xuống 1.312,89 USD/ounce, sau khi có lúc chạm mức thấp trong một tuần là 1.304,11 USD/ounce; vàng giao tháng 6/2018 phiên này hạ 0,05% xuống 1.313 USD/ounce.
Bên cạnh việc Mỹ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran, một diễn biến khác được cho là tác động không nhỏ đến bước đi của giá vàng còn là các căng thẳng địa chính trị tại bán đảo Triều Tiên đã dịu đi thêm, khi ngày 9/5, Tổng thống Donald Trump tuyên bố ba công dân nước này bị CHDCND Triều Tiên bắt giữ hiện đã được thả và đang trên đường trở về nước cùng với Ngoại trưởng Mike Pompeo, một động thái được xem là thiện chí của Bình Nhưỡng trong việc cải thiện quan hệ với Washington trước thềm cuộc gặp thượng đỉnh sắp tới.
Vàng thường tăng giá trong những giai đoạn có biến động chính trị, song kim loại này có mối liên quan chặt chẽ với những tài sản cũng được xem là “an toàn” khác như USD và JPY, mà chỉ số đồng USD – đo lường sức mạnh của đồng bạc xanh so với rổ các đồng tiền chủ chốt – phiên này có lúc tăng lên mức “đỉnh” của năm 2018.
Nhà phân tích kỹ thuật Wang Tao của Thomson Reuters cảnh báo, giá vàng giao ngay có thể quay trở lại mức thấp như hôm 1/5 là 1.301,50 USD/ounce nếu lần thứ 3 không phá vỡ được ngưỡng kháng cự 1.317 USD/ounce. Tuy nhiên, giá dầu cao nhất 4 năm có thể khiến lạm phát gia tăng, và điều đó nếu xảy ra sẽ hậu thuẫn giá vàng tăng.
Đối với những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,6% trong phiên vừa qua so với phiên trước đó lên 16,53 USD/ounce, sau khi có lúc chạm mức cao 16,62 USD/ounce. Giá bạch kim tăng 0,8% lên 912,74 USD/ounce trong khi giá palladium tiến 0,6% lên 975,5 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do dự đoán nhu cầu sẽ mạnh trong quý này. Tuy nhiên, việc Mỹ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran đã kiềm chế xu hướng tăng. Đồng giao sau 3 tháng trên sàn London – tham chiếu cho toàn thị trường đồng – tăng 1% lên 6.810 USD/tấn; phiên trước đó giá đã giảm 1%. Nhà phân tích kỹ thuật Wang Tao của Thomson Reuters cho biết nếu phá vỡ ngưỡng kháng cự 6.833 USD/tấn tghif giá đồng có thể tăng lên 6.869 USD/tấn.
Dự trữ đồng tại các kho ở sàn giao dịch kim loại London đã giảm 9.600 tấn xuống 293.025 tấn, mức thấp nhất kể từ cuối tháng 1. Trong khi đó, sản lượng đồng của Chile quý 1/2018 đã tăng 18,9% so với cùng quý năm trước do Escondida – mỏ đồng lớn nhất thế giới – nâng gấp 3 sản lượng lên 322.700 tấn để khôi phục sản xuất sau những đợt công nhân đình công kéo dài hồi năm ngoái.
Trái với đồng, giá thép cây (dùng trong xây dựng) tại Trung Quốc giảm phiên thứ 4 liên tiếp do nguồn cung tăng. Phiên vừa qua, thép cây giao kỳ hạn giao sau tại Thượng Hải giảm 2,2% xuống 3.571 NDT (559,9 USD)/tấn, đầu phiên có lúc giá giảm 2,4% xuống mức thấp nhất gần 2 tuần. Hợp đồng giao ngay phiên trước đó đã giảm 1% xuống 4.309,35 NDT/tấn. Sản lương thép thô của các công ty thép hàng đầu Trung Quốc trong 10 ngày giữa tháng 4 đã tăng 1,87% so với cùng kỳ tháng trước, với sản lượng trung bình ngày đạt 1,91 triệu tấn, cao nhất kể từ 2009.
Trên thị trường nông sản, giá chè tại Mombasa (Kenya) trong phiên đấu giá 8/5 ở mức 247 shilling/kg, thấp nhất trong năm nay và giảm gần 10% so với tháng 1/2018; trong khi đó tại Bangladesh giá trung bình 213,09 taka (2,6 USD)/kg, so với 213,02 taka của phiên trước mặc dù nhu cầu mạnh. Nguồn cung dồi dào khiến giá chè thấp suốt 2 tháng nay. Sản lượng chè Kenya trong tháng 2 đạt 27,93 triệu kg, so với 22,60 triệu kg cùng kỳ năm trước. Sản lượng chè Ấn Độ trong tài khóa 2011-18 đạt mức cao nhất từ trước tới nay, với 1.325,05 triệu kg, tăng 74,56 triệu kg so với tài khóa 2016-17. Xuất khẩu chè trong tài khóa 2017-18 đạt 256,57 triệu kg, đem về 785,92 triệu USD (tăng 12,7% về khối lượng và 13,87% về trị giá so với tài khóa trước).
Giá cà phê robusta giao tháng 7 giảm 47 USD (2,6%) xuống 1.747 USD/tấn, trong phiên có lúc giá chỉ 1.740 USD/tấn; arabica giao cùng kỳ hạn cũn giảm 0,85 US cent (0,7%) xuống 1,1875 USD/lb, trong phiên có lúc giá xuống thấp nhất 2 tuần là 1,1985 USD/lb. Thời tiết Brazil tiếp tục khô ráo thuận lợi cho thu hoạch cà phê.
Giá cao su trên sàn Tokyo vững trong phiên vừa qua trong bối cảnh chịu tác động từ 2 thông tin tác động trái chiều: yen yếu đi và cao su Thượng Hải giảm giá. Kết thúc phiên giao dịch, giá hợp đồng giao tháng 10 tại Tokyo không đổi ở mức 191,7 JPY (1,75 USD)/kg; hợp đồng giao tháng 9 tại Thượng Hải giảm 135 NDT xuống 11.605 NDT (1.820 USD)/tấn. Đồng yen đã giảm xuống mức thấp nhất 6 ngày so với USD do dầu mỏ và trái phiếu kho bạc Mỹ đều tăng sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố rút khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran.
Giá đường thô phiên vừa qua giảm 0,27 US cent (2,3%) xuống 11,29 US cent/lb, đường trắng giao tháng 8 giảm 3,7 USD tương đương 1,1% xuống 323.90 USD/tấn.
Hàng hóa |
ĐVT |
Giá |
/- |
/- (%) |
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
71,14 |
2,08 |
3% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
77,21 |
2,36 |
3,15% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
48.980,00 |
600,00 |
1,24% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
2,73 |
0,00 |
-0,15% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
216,64 |
-0,09 |
-0,04% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
221,86 |
0,06 |
0,03% |
Dầu khí |
USD/tấn |
674,25 |
27,00 |
4,17% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
66.670,00 |
710,00 |
1,08% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1.313,50 |
-0,50 |
-0,04% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4.618,00 |
16,00 |
0,35% |
Bạc New York |
USD/ounce |
16,52 |
-0,01 |
-0,08% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
58,00 |
0,10 |
0,17% |
Bạch kim giao ngay |
USD/ounce |
914,77 |
0,05 |
0,01% |
Palladium giao ngay |
USD/ounce |
977,13 |
-0,90 |
-0,09% |
Đồng New York |
US cent/lb |
306,10 |
0,35 |
0,11% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
6.810,00 |
65,00 |
0,96% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.366,00 |
8,50 |
0,36% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
3.076,00 |
16,00 |
0,52% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
21.110,00 |
185,00 |
0,88% |
Ngô |
US cent/bushel |
402,75 |
-0,50 |
-0,12% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
510,50 |
-4,00 |
-0,78% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
240,50 |
0,50 |
0,21% |
Gạo thô |
USD/cwt |
12,67 |
-0,08 |
-0,67% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
1.015,75 |
-4,50 |
-0,44% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
385,80 |
-0,10 |
-0,03% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
31,03 |
0,34 |
1,11% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
530,40 |
1,90 |
0,36% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
2.770,00 |
-3,00 |
-0,11% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
118,75 |
-0,85 |
-0,71% |
Đường thô |
US cent/lb |
11,29 |
-0,27 |
-2,34% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
166,65 |
5,25 |
3,25% |
Bông |
US cent/lb |
85,86 |
0,48 |
0,56% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
— |
— |
— |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
591,20 |
-1,20 |
-0,20% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
192,50 |
0,80 |
0,42% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
1,47 |
-0,01 |
-0,47% |
Nguồn tin: vinanet.vn
Trả lời