Phiên giao dịch 2/1 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 3/1 giờ VN), giá dầu thô giảm trở lại, nhưng hầu hết các mặt hàng chủ chốt khác đều tăng.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau khi tuyến đường ống dẫn dầu ở khu vực Biển Bắc thuộc nước Anh và một đường ống dẫn dầu tại Libya đã bắt đầu nối lại hoạt động.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 2/2018 trên sàn New York giảm nhẹ 0,05 USD xuống 60,37 USD/thùng; dầu thô Brent giao tháng 3/2018 trên sàn London giảm xuống 66,57 USD/thùng.
Hệ thống đường ống dẫn dầu từ Forties tại khu vực Biển Bắc (Vương quốc Anh) với công suất 450.000 thùng/ngày đã hoạt động hoàn toàn trở lại vào ngày 30/12 sau một thời gian tạm phải đóng cửa để sửa chữa đường ống. Trong khi đó, theo CNBC, việc sửa chữa một đường ống dẫn dầu của Libya bị hư hỏng sau một vụ tấn công hồi tuần trước cũng đang hoạt động trở lại từng bước.
Tại Iran, bất ổn gia tăng khiến hoạt động sản xuất dầu mỏ tại nước này bị gián đoạn. Vào ngày 31/12 vừa qua, các cuộc biểu tình tại Iran bước sang ngày thứ tư liên tiếp với hàng nghìn người tuần hành tại nhiều thị trấn và thành phố của nước này, trong đó có Mashhad, thành phố lớn thứ hai của Iran, và một số thành phố khác, phản đối tình trạng lạm phát và thất nghiệp tăng cao. Một số tòa nhà chính phủ được cho là đã bị tấn công. Đây là thách thức về bất ổn chính trị lớn nhất đối với chính quyền Iran kể từ năm 2009.
Ngoài tình hình bất ổn tại Iran, dự trữ dầu thô toàn cầu sụt giảm và đà tăng trưởng kinh tế khả quan tại nhiều khu vực trên thế giới đã khiến giới đầu tư bớt quan tâm hơn tới việc đường ống dẫn dầu Forties tại khu vực Biển Bắc thuộc Anh và một đường ống dẫn dầu tại Libya bắt đầu nối lại hoạt động.
Dự trữ dầu thô của Mỹ hiện đã giảm gần 20% so với mức cao lịch sử được ghi nhân vào tháng 3/2017, xuống 431,9 triệu thùng. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ “vàng đen”, đặc biệt là từ Trung Quốc, gia tăng cũng giúp hỗ trợ giá dầu.
Tuy nhiên, sản lượng dầu của Mỹ, hiện có khả năng sẽ sớm phá vỡ ngưỡng 10 triệu thùng/ngày, là nhân tố duy nhất đe dọa triển vọng “sáng”của thị trường năng lượng trong năm 2018.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục kéo dài đà tăng, trong bối cảnh đồng USD yếu đi.
Giá vàng giao ngay tăng 1% lên 1.315,11 USD/ounce, sau khi đã có lúc chạm mức 1.315,46 USD/ounce – mức cao nhất kể từ 20/9/2017. Kim loại quý này đã duy trì đà tăng giá kéo dài kể từ ngày 15/12/2017 đến nay; Vàng giao tháng 2/2018 tăng 6,8 USD/ounce (0,52%) lên khép phiên ở mức 1.316,1 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD – được coi là thước đo “sức khỏe” của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – phiên này giảm 0,39% và rơi xuống mức thấp nhất trong hơn ba tháng là 91,92 (điểm). Việc giới đầu tư nhận định lộ trình tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ diễn ra chậm hơn dự kiến đã tạo sức ép xuống giá đối với đồng USD trong phiên 2/1. Giá vàng luôn nhạy cảm với những biến động của đồng USD, do một khi đồng bạc xanh yếu đi sẽ khiến sức hấp dẫn của các tài sản an toàn như vàng gia tăng đáng kể.
Trong năm 2017, đồng bạc xanh đã giảm nhiều nhất kể từ năm 2003, qua đó giúp giá vàng tăng tới 13% trong cả năm vừa qua. Kim loại quý này đã tăng tới 55 USD/ounce chỉ tính riêng trong ba tuần cuối cùng của năm 2017.
Theo nhà phân tích Jonathan Butler của Mitsubishi, các yếu tố chính sẽ ảnh hưởng đến thị trường vàng trong năm nay bao gồm: tiến độ bình thường hóa chính sách lãi suất của các ngân hàng trung ương, diễn biến của thị trường chứng khoán toàn cầu, những ảnh hưởng lâu dài của chương trình cải cách thuế tại Mỹ, và diễn tiến của tình hình lạm phát.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,4% lên 17,184 USD/ounce, trong khi giá bạch kim tiến thêm 1,7% lên 941,5 USD/ounce. Palladium (Pa-la-đi) phiên này tăng 3,12% lên 1.094,1 USD/ounce. Trong số các kim loại quý chủ chốt trên thị trường, palladium là kim loại có “màn trình diễn” ấn tượng nhất trong năm 2017 khi tăng tới 57% và đạt mức cao nhất trong nhiều năm qua.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê tăng, với arabica giao tháng 3 tăng 4 US cent tương đương 3,17 % lên 1,302 USD/lb, trong phiên có lúc giá chạm 1,3065 USD, mức cao nhất kể từ 10/10/2017.
Đồng real Brazil tăng giá so với USD đã hỗ trợ giá arabica. Loại cà phê này đã giảm giá 8% trong năm 2017, nhưng đang trong chuỗi tăng giá 5 phiên liên tiếp.
Sản lượng cà phê Brazil chắc chắn sẽ thấp hơn mức 60 triệu bao trong dự kiến do thời tiết mấy tháng gần đây không thuận lợi, Shawn Hackett, chủ tịch Hackett Financial Advisors cho biết.
Giá robusta phiên vừa qua cũng tăng 15 USD lên 1.833 USD/tấn.
Đường cũng tăng giá trong phiên vừa qua, với đường thô giao tháng 3 giá tăng 0,17 US cent tương đương 1,12% lên 15,33 US cent/lb, trong phiên có lúc giá chạm 15,34 US cent, mức cao hất kể từ cuối tháng 112017. Đường trắng giao tháng 3 giá tăng 3,9 USD tương đương 0,99% lên 398,60 USD/tấn.
Hàng hóa |
ĐVT |
Giá |
/- |
/-(%) |
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
60,37 |
-0,05 |
-0,08% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
66,57 |
-0,01 |
-0,02% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
44.260,00 |
-70,00 |
-0,16% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
3,03 |
-0,03 |
-0,95% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
176,45 |
0,14 |
0,08% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
206,00 |
0,16 |
0,08% |
Dầu khí |
USD/tấn |
600,50 |
2,00 |
0,33% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
59.340,00 |
70,00 |
0,12% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1.321,30 |
5,20 |
0,40% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4.707,00 |
22,00 |
0,47% |
Bạc New York |
USD/ounce |
17,23 |
0,02 |
0,14% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
61,70 |
0,60 |
0,98% |
Bạch kim giao ngay |
USD/t oz. |
943,35 |
-0,95 |
-0,10% |
Palladium giao ngay |
USD/t oz. |
1.094,49 |
-0,96 |
-0,09% |
Đồng New York |
US cent/lb |
326,60 |
-1,20 |
-0,37% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
7.205,00 |
-42,00 |
-0,58% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.264,50 |
-3,50 |
-0,15% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
3.349,00 |
30,00 |
0,90% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
20.040,00 |
15,00 |
0,07% |
Ngô |
US cent/bushel |
353,25 |
0,00 |
0,00% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
435,50 |
2,00 |
0,46% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
242,00 |
-0,50 |
-0,21% |
Gạo thô |
USD/cwt |
11,75 |
-0,02 |
-0,21% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
967,00 |
2,25 |
0,23% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
318,60 |
0,70 |
0,22% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
33,59 |
0,04 |
0,12% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
491,00 |
0,20 |
0,04% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
1.936,00 |
44,00 |
2,33% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
130,20 |
4,00 |
3,17% |
Đường thô |
US cent/lb |
15,33 |
0,17 |
1,12% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
136,55 |
-0,30 |
-0,22% |
Bông |
US cent/lb |
77,50 |
-1,13 |
-1,44% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
— |
— |
— |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
449,50 |
7,60 |
1,72% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
207,00 |
0,30 |
0,15% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
1,37 |
0,01 |
0,81% |
Nguồn tin: vinanet.vn
Trả lời