Phiên giao dịch 7/8 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 8/8 giờ VN), giá cà phê lên mức cao nhất 3 tháng rưỡi, vàng tăng nhẹ, trong khi dầu và đường giảm.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau khi hoạt động khai thác tại mỏ dầu lớn nhất của Libya đã trở lại bình thường thúc đẩy hoạt động bán ra.
Giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 9/2017 trên sàn New York giảm 19 US cent (0,4%) xuống còn 49,39 USD/thùng, trong phiên có lúc giá chỉ 48,54 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 10/2017 giảm 5 US cent (0,1%) xuống còn 52,37 USD/thùng, trong phiên có lúc giá giảm xuống 51,37 USD/thùng.
Những lo ngại về tính hiệu quả của thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu của OPEC và các nước sản xuất dầu hàng đầu thế giới ngoài OPEC, trong đó có Nga, tiếp tục ám ảnh thị trường. Sản lượng dầu trong tháng 7/2017 của OPEC đã đạt mức cao kể từ đầu năm, trong khi xuất khẩu “vàng đen” của khối cũng ở mức kỷ lục.
Theo Thomson Reuters Oil Research, xuất khẩu dầu thô của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ OPEC tăng lên mức cao kỷ lục trong tháng 7, phần lớn do xuất khẩu tăng từ các nước châu Phi. Cụ thể, Xuất khẩu của OPEC trong tháng 7 đạt 26,11 triệu thùng/ngày, tăng 370.000 thùng/ngày chủ yếu đến từ Nigeria, xuất khẩu tăng 260.000 thùng/ngày.
Xuất khẩu từ Trung Đông giảm xuống 18,14 triệu thùng/ngày trong tháng 7 từ 18,53 triệu thùng trong tháng trước, do xuất khẩu từ Saudi Arabia, Kuwait và Qatar sụt giảm. Sụt giảm mạnh nhất là Saudi Arabia, đã xuất khẩu trung bình 7,10 triệu thùng/ngày, giảm 360.000 thùng/ngày so với tháng 6.
Báo cáo cho biết “tính đến nay, nước này đã xuất khẩu tủng bình 7,26 triệu thùng/ngày, giảm gần 300.000 thùng/ngày so với mức trung bình năm 2016, thể hiện mức cam kết hoàn toàn với việc hạn chế nguồn cung cấp. Tuy nhiên, tình trạng nguồn cung cao hơn nhu cầu vẫn kéo dài do các thành viên khác của OPEC chưa tuân thủ cam kết”.
Công ty Dầu mỏ quốc gia Libya (NOC) cho biết sản lượng tại Sharara, mỏ dầu lớn nhất của Libya, đã trở lại mức bình thường sau khi hoạt động khai thác phải gián đoạn trong thời gian ngắn do biểu tình.
Trong khi đó, sản lượng dầu của Mỹ đạt mức 9,43 triệu thùng/ngày trong tuần kết thúc vào ngày 28/7, mức cao nhất kể từ tháng 8/2015 và tăng 12% so với mức thấp nhất gần nhất vào tháng 6/2016. Morgan Stanley dự đoán sản lượng dầu của Mỹ trong quý III/2017 sẽ tăng 900.000 thùng/ngày so với cùng kỳ năm 2016, cao hơn con số ước tính 860.000 thùng/ngày trước đó.
Tuần này, các nhà đầu tư sẽ chú ý tới cuộc họp giữa các nước trong và ngoài OPEC diễn ra tại Abu Dhabi nhằm thảo luận về mức độ tuân thủ thỏa thuận cắt giảm. Thị trường cũng tiếp tục theo dõi dữ liệu dầu thô và các sản phẩm lọc hóa dầu của Mỹ. Kèm theo đó các nhà đầu tư chú ý đến bình luận từ các nhà khai thác dầu thô trên thế giới về tình hình tuân thủ thỏa thuận cắt giảm của họ.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ do USD giảm.
Giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.259,20 USD/ounce, vàng giao tháng 12 tăng nhẹ 0,01% lên 1.264,70 USD/ounce.
Đồng USD yếu đi trong bối cảnh giới đầu tư đang đón đợi số liệu về lạm phát sẽ được công bố trong tuần này. USD yếu thường đẩy giá vàng tăng vì vàng định giá bằng đồng tiền n/ày.
Sau khi số liệu được công bố tuần trước cho thấy số lượng việc làm của Mỹ tăng mạnh, nhiều nhà đầu tư tỏ ra thận trọng đối với số liệu sắp được công bố.
Ông James Bullard, Chủ tịch chi nhánh St. Louis của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), cho rằng Fed có thể sẽ giữ nguyên lãi suất vì lạm phát không thể tăng mạnh ngay cả khi thị trường việc làm của Mỹ tiếp tục cải thiện.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,1% lên 16,25 USD/ounce, bạch kim tăng 0,4% lên 963,20 USD/ounce.
Dữ liệu nền kinh tế Mỹ cho thấy trong tháng 7, quốc gia này đã tạo thêm 209.000 việc làm so với kỳ vọng là 183.000 việc làm, tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức 4,3% – mức thấp nhất kể từ tháng 3/2001, theo báo cáo công bố hôm thứ 6. Thu nhập của người lao động tăng 9 cent trong tháng 7 lên 26,36 USD/giờ, mức cao nhất kể từ tháng 10/2016 và tăng 2,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Dữ liệu bảng lương phi nông nghiệp tăng cùng với tỷ lệ thất nghiệp thấp cho thấy có thể Fed sẽ vẫn cần phải tăng lãi suất thêm 1 lần nữa trong năm nay, ngay cả khi tỷ lệ tạm pháp tăng chậm chạp, chuyên gia Simona Gambarini đến từ Capital Economics nhận định.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica tăng lên mức cao nhất 3 tháng rưỡi. Arabica hợp đồng giao tháng 9 giá tăng 1,9 US cent tương đương 1,9 US cent tương đương 1,4% lên 1,4205 USD/lb, trong phiên có lúc giá đạt 1,428 USD/lb.
Lo ngại về khối lượng xuất khẩu của Brazil do yếu tố sản lượng đẩy giá tăng lên, Jack Scoville, phó chủ tịch công ty Price Futures Group ở Chicago cho biết.
Robusta giao tháng 9 giá tăng 22 USD tương đương 1% lên 2.163 USD/tấn.
Đường thô giao tháng 10 giá giảm 0,3 US cent tương đương 2% xuống 13,9 US cent/lb, đường trắng giao cùng kỳ hạn giá giảm 4,8 USD tương đương 1,2% xuống 382,10 USD/tấn, trong phiên có lúc giá lên 391,40 USD/tấn.
ĐVT |
Giá |
/- |
/- (%) |
|
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
49,39 |
-0,19 |
-0,4% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
52,37 |
-0,5 |
-0,1% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
35.470,00 |
-60,00 |
-0,17% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
2,81 |
0,01 |
0,39% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
162,79 |
-0,20 |
-0,12% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
163,72 |
-0,26 |
-0,16% |
Dầu khí |
USD/tấn |
482,75 |
4,25 |
0,89% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
49.970,00 |
170,00 |
0,34% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1,274.30 |
0.10 |
0.01% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4,479.00 |
-2.00 |
-0.04% |
Bạc New York |
USD/ounce |
16,27 |
0,02 |
0,12% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
58,40 |
0,40 |
0,69% |
Bạch kim giao ngay |
USD/t oz. |
968,75 |
0,80 |
0,08% |
Palladium giao ngay |
USD/t oz. |
890,39 |
0,78 |
0,09% |
Đồng New York |
US cent/lb |
291,45 |
0,75 |
0,26% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
6.414,00 |
42,00 |
0,66% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
1.964,00 |
53,50 |
2,80% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.858,00 |
46,00 |
1,64% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
20.600,00 |
90,00 |
0,44% |
Ngô |
US cent/bushel |
387,75 |
1,00 |
0,26% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
464,25 |
0,75 |
0,16% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
276,00 |
-0,50 |
-0,18% |
Gạo thô |
USD/cwt |
12,11 |
0,06 |
0,50% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
973,25 |
3,50 |
0,36% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
315,20 |
1,00 |
0,32% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
34,06 |
0,13 |
0,38% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
503,30 |
3,00 |
0,60% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
2.042,00 |
21,00 |
1,04% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
142,05 |
1,90 |
1,36% |
Đường thô |
US cent/lb |
13,87 |
-0,27 |
-1,91% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
134,10 |
-1,20 |
-0,89% |
Bông |
US cent/lb |
70,36 |
-0,19 |
-0,27% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
— |
— |
— |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
367,60 |
-6,20 |
-1,66% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
213,50 |
1,50 |
0,71% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
1,60 |
0,02 |
1,21% |
Nguồn tin: Vinanet.vn
Trả lời