Tuần qua giá một số mặt hàng chủ chốt giảm mạnh mặc dù hồi phục trong phiên cuối tuần.
Năng lượng: Dầu mỏ rớt giá mạnh bởi lo ngại thị trường sẽ còn tiếp tục dư cung
Phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 6/2017 trên sàn New York tăng 70 US cent (1,5%), lên 46,22 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc giao tháng 7/2016 trên sàn London cũng tăng 72 US cent (1,5%), lên 49,10 USD/thùng. Tuy nhiên, tính chung cả tuần qua, giá dầu WTI mất 6,3% và giá dầu Brent hạ 5,6%.
Saudi Arabia về việc Nga mới đây tiếp tục khẳng định sẵn sàng tham gia kế hoạch nới dài thời hạn thực hiện thỏa thuận cắt giảm sản lượng của OPEC.
Tuy nhiên, theo giới phân tích, việc cắt giảm sản lượng như hiện nay vẫn không làm kho dự trữ dầu thô toàn cầu vơi đi đáng kể, một phần là do động thái này đã thúc đẩy các nhà sản xuất dầu đá phiến ở Mỹ gia tăng sản xuất.
Áp lực về tình trạng dôi dư nguồn cung tiếp tục đè nặng lên thị trường toàn cầu. Theo giới phân tích, việc cắt giảm sản lượng không làm kho dự trữ dầu thô toàn cầu vơi đi đáng kể, một phần là do động thái này đã thúc đẩy các nhà sản xuất dầu đá phiến ở Mỹ gia tăng sản xuất.
Theo khảo sát của hãng tin Anh Reuters, mức độ tuân thủ thỏa thuận cắt giảm sản lượng của các thành viên OPEC lại giảm xuống, từ 92% trong tháng Ba xuống 90% trong tháng Tư vừa qua.
Trong khi đó, báo cáo hàng tuần từ công ty dịch vụ dầu khí Baker Hughes vừa được công bố ngày 5/5 cho biết, số giàn khoan dầu đang hoạt động tại
Mỹ trong tuần này đã tăng 6 giàn, lên 703 giàn, đánh dấu tuần thứ 16 tăng liên tiếp, đồng thời cho thấy đà tăng của sản lượng dầu tại Mỹ chưa có dấu hiệu dừng lại.
Kim loại quý: Giá vàng giảm mạnh nhất 6 tháng
Phiên giao dịch cuối tuần, giá vàng giao ngay tăng nhẹ 0,05% lên 1.227,89 USD/ounce, nhưng vẫn phải chứng kiến mức giảm 3,2% cho cả tuần qua, đánh dấu tuần giảm giá mạnh nhất kể từ tháng 11/2016; trong khi đó, giá vàng giao tháng 6/2017 trong phiên cuối tuần lại hạ 0,14%, xuống 1.226,90 USD/ounce, mức thấp nhất trong khoảng bảy tuần qua, như vậy, giá vàng kỳ hạn cũng mất 3,3% cho cả tuần, cũng là mức giảm mạnh nhất kể từ tuần kết thúc vào ngày 11/11/2016.
Các kim loại quý khác cũng có xu hướng tương tự như vàng, với bạc tăng 0,2% trong phiên cuối tuần lên 16,31 USD/ounce, song vẫn giảm 5,4% cả tuần; giá bạch kim phiên cuối tuần cũng ghi thêm 1,1%, lên 909,10 USD/ounce, khép tuần vẫn mất 4%; trong khi đó, giá palađi phiên 5/5 tăng 1,2%, lên 814 USD/ounce. Hiện khoảng cách giữa giá bạch kim và palađi đang được thu hẹp nhất trong vòng 15 năm qua.
Liên tục đi xuống và chạm các mức “đáy” của nhiều tuần trong các phiên giao dịch vừa qua, giá vàng thế giới chứng kiến tuần mất giá mạnh nhất trong sáu tháng.
Áp lực xuống giá tiếp tục đè nặng lên kim loại quý này do sự phục hồi của đồng USD, chạm mức cao nhất sau tuần so với đồng yen trong ngày 2/5. Việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) giữ nguyên lãi suất như dự kiến và thị trường giảm bớt dự đoán về khả năng chiến thắng bất ngờ của ứng viên Marine Le Pen trong cuộc bầu cử Tổng thống Pháp đã giúp đồng bạc xanh tiếp tục vững mạnh và “nhấn chìm” giá vàng xuống mức thấp nhất 1 tháng trong phiên 3/5. Báo cáo việc làm tích cực của Mỹ trong tháng Tư vừa được Bộ Lao động Mỹ công bố ngày 5/5 như một “đòn” giáng thêm vào thị trường vàng vốn đã quá ảm đạm trong tuần qua. Cụ thể, báo cáo cho hay nền kinh tế lớn nhất thế giới đã tạo thêm được 211.000 việc làm mới trong tháng 4/2017, vượt xa con số tương ứng của tháng Ba là 79.000 việc làm, qua đó đưa tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ giảm xuống còn 4,4%, mức thấp nhất kể từ tháng 5/2007. Thông tin trên càng củng cố thêm khả năng Fed sẽ nâng lãi suất vào tháng Sáu tới.
Về thông tin liên quan, theo báo cáo mới nhất vừa do Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) công bố, nhu cầu về vàng trên toàn cầu trong quý I/2017 giảm 18% so với cùng kỳ năm ngoái, khi các nhà đầu tư tại Mỹ “bỏ rơi” kim loại quý này sau thắng lợi của ông Donald Trump trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ hồi tháng 11 năm ngoái.
Cụ thể, nhu cầu mua vàng trong quý I/2017 là 1.034,5 tấn – mức thấp nhất trong vòng 11 năm qua. Con số này trong cùng kỳ năm ngoái là 1.261,8 tấn.
Tại Trung Quốc, nhu cầu mua vàng trong quý I đã tăng 30% lên 105,9 tấn khi Bắc Kinh thực hiện cải cách hệ thống tài chính nhằm ngăn chặn bong bóng nhà đất, khiến giới đầu tư quay sang kim loại quý này để duy trì tài sản của mình. Còn tại Ấn Độ, nhu cầu mua vàng cũng tăng 16% lên 92,3 tấn sau khi suy giảm vào cuối năm 2016. Nhu cầu vàng của người Trung Quốc được dự báo sẽ vào khoảng 900-1.000 tấn trong năm nay, so với mức 913 tấn của năm 2016. Trong khi thị trường Ấn Độ ước tính tiêu thụ 650-750 tấn vàng trong năm nay, so với mức 660 tấn hồi năm ngoái.
Kim loại cơ bản: Giá Giá biến động
Giá đồng hồi phục trong phiên cuối tuần từ mức thấp nhất 5 tháng của phiên trước đó khi các công nhân mỏ ở Peru xem xét chuẩn bị một cuộc đình công mới và các nhà đầu tư bị thu hút bởi giá giảm mạnh gần đây.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn London kết thúc tuần tăng 0,8% lên 5.585 USD/tấn, trong phiên giao dịch trước, đồng đã xuống mức giá 5.494 USD/tấn, thấp nhất kể từ ngày 4/1.
Công nhân ở mỏ đồng Cerro Verde của Freeport-McMoRan ở Peru đã chuẩn bị cho một cuộc đình công mới.
Trong khi đó, số liệu mới cho thấy dự trữ đồng trên sàn London đã tăng 36.800 tấn, tức là tăng 40% trong tuần qua.
Nông sản: Giá biến động
Giá đường tăng trong phiên giao dịch cuối tuần, với hợp đồng giao tháng 7 giá giảm 0,06 US cent hay 0,4% xuống 15,31 US cent/lb, và tính chung cả tuần giá giảm 4,6%, mức giảm mạnh nhất kể từ cuối tháng 3.
Đường trắng giao tháng 8 cũng giảm 1,2 USD hay 0,3% trong phiên cuối tuần xuống 441,30 USD/tấn, sau khi có lúc giá xuống chỉ 440,50 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 4/2016.
Dự báo thi trường sẽ dư thừa nhiều đã đẩy giá đường giảm 4 phiên liên tiếp. Nhà phân tích Green Pool ở Australia dự báo niên vụ 2017/18 thế giới sẽ thửa 4,72 triệu tấn đường.
Với mặt hàng cà phê giá tăng trong phiên cuối tuần. Hợp đồng giao tháng 7 tăng 0,75 US cent hay 0,6% lên 1,357 USD/lbm tính chung cả tuần giá tăng 1,7%, là tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 1. Robusta giao tháng 7 giá cũng tăng 10 USD hay 0,5% lên 2.002 USD/tấn, tính chung cả tuần giá tăng 2,9%, mạnh nhất trong vòng 9 tuần.
Hàng hóa |
ĐVT |
29/4 |
6/5 |
6/5 so với 5/5 |
6/5 so với 5/5 (%) |
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
49,33 |
46,22 |
0,70 |
1,54% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
51,89 |
49,10 |
0,72 |
1,49% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
35.750,00 |
35.610,00 |
-240,00 |
-0,67% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
3,28 |
3,27 |
0,08 |
2,51% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
154,80 |
150,46 |
2,34 |
1,58% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
150,72 |
143,66 |
2,43 |
1,72% |
Dầu khí |
USD/tấn |
455,50 |
435,00 |
7,25 |
1,69% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
48.220,00 |
48.370,00 |
-160,00 |
-0,33% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1,268.30 |
1.226,90 |
-1,70 |
-0,14% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4,527.00 |
4.509,00 |
-11,00 |
-0,24% |
Bạc New York |
USD/ounce |
17.26 |
16,27 |
-0,03 |
-0,18% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
61.70 |
61,00 |
-0,30 |
-0,49% |
Bạch kim giao ngay |
USD/t oz. |
946,19 |
913,41 |
9,79 |
1,08% |
Palladium giao ngay |
USD/t oz. |
826,34 |
815,18 |
10,09 |
1,25% |
Đồng New York |
US cent/lb |
260,75 |
252,85 |
1,70 |
0,68% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
5.735,50 |
5.585,00 |
42,00 |
0,76% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
1.911,50 |
1.903,00 |
-10,00 |
-0,52% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.623,00 |
2.582,00 |
13,00 |
0,51% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
19.900,00 |
19.575,00 |
-275,00 |
-1,39% |
Ngô |
US cent/bushel |
366,50 |
370,75 |
4,25 |
1,16% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
432,25 |
442,25 |
4,50 |
1,03% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
228,00 |
248,75 |
4,75 |
1,95% |
Gạo thô |
USD/cwt |
9,42 |
9,87 |
-0,04 |
-0,40% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
956,25 |
973,00 |
-1,25 |
-0,13% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
315,80 |
316,90 |
-1,70 |
-0,53% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
31,71 |
32,90 |
0,40 |
1,23% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
514,70 |
525,80 |
3,00 |
0,57% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
1.841,00 |
1.866,00 |
27,00 |
1,47% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
133,40 |
135,70 |
0,75 |
0,56% |
Đường thô |
US cent/lb |
16,13 |
15,31 |
-0,06 |
-0,39% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
158,35 |
146,35 |
0,50 |
0,34% |
Bông |
US cent/lb |
78,87 |
77,77 |
-1,14 |
-1,44% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
— |
— |
— |
— |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
386,10 |
388,80 |
-6,30 |
-1,59% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
216,60 |
221,70 |
6,10 |
2,83% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
1,56 |
1,50 |
0,03 |
2,25% |
Nguồn tin: Vinanet.vn
Trả lời