Với tin tức rằng Đức không còn nấn ná trong việc hạn chế nhập khẩu dầu của Nga trên toàn EU, cuộc khủng hoảng nguồn cung trên thị trường dầu có vẻ sẽ trở nên tồi tệ hơn nếu EU quyết định về một lệnh cấm hoàn toàn. Trong khi Hungary vẫn còn nấn ná thì các nguồn tin được Wall Street Journal trích dẫn cho biết khối 27 thành viên này đang thảo luận về các biện pháp nhằm giúp nước này quản lý nguồn cung dầu mà không cần dòng chảy từ Nga. EU chuyển 450 triệu đô la mỗi ngày để mua dầu của Nga và 400 triệu đô la mỗi ngày cho khí đốt tự nhiên, khi Châu Âu nhập khẩu 138 triệu tấn dầu của Nga vào năm ngoái, chiếm 53% tổng lượng dầu xuất khẩu của nước này. Trong khi đó, vấn đề sản xuất của OPEC dường như không bao giờ kết thúc. Sản lượng của OPEC trong tháng 3 chỉ tăng 40 ngàn thùng/ngày, thấp hơn mục tiêu tăng trưởng sản lượng 254 ngàn thùng/ngày của nhóm. Theo một cuộc khảo sát của Reuters, phần lớn nguyên nhân là do sản lượng sụt giảm ở Libya và Nigeria, với sự sụt giảm liên tục ở Nigeria là một trở ngại dai dẳng.
Một tuần trước, Goldman Sachs bày tỏ sự lạc quan rằng ngành công nghiệp này đã đạt đến một bước ngoặt trong chu kỳ đầu tư dầu khí, với bảy năm suy giảm hoạt động sắp sửa kết thúc. Goldman cho rằng vốn đầu tư vào dầu khí có thể tăng gấp 3 lần so với mức thấp gần đây.
Tin tốt là một bước tiến khai thác đã được tiến hành trong lĩnh vực khoan ngoài khơi.
Theo Bloomberg, một làn sóng các giàn khoan dầu mới đang quét qua Vịnh Mexico của Mỹ khi các công ty dầu mỏ đổ xô tận dụng giá dầu ở mức cao nhất trong nhiều năm.
Nhưng tin xấu là: Sản lượng dầu ngoài khơi của Mỹ tăng mạnh không có khả năng thu hẹp khoảng trống nguồn cung dầu toàn cầu do nhiều năm không đầu tư.
Bloomberg đưa tin các giàn khoan khai thác nổi của BP Inc. (NYSE: BP) và Shell (NYSE: SHEL) dự kiến sẽ bắt đầu bơm dầu thô ngoài khơi Louisiana vào cuối năm nay. Họ sẽ tham gia cùng (NYSE: MUR) một giàn khoan khổng lồ khác ở Louissiana của Murphy Oil – King Quay, đã bắt đầu khai thác dầu vào tháng Tư. Các giàn khoan khác của Chevron Inc. (NYSE: CVX), Shell và Beacon Offshore Energy dự kiến sẽ bắt đầu đi vào hoạt động sau hai năm.
Sau khi hoàn tất, sáu giàn khoan sẽ có khả năng bơm tới 560.000 thùng dầu thô mỗi ngày.
Vịnh Mexico là một trung tâm khai thác dầu thô của Mỹ, với một lượng lớn các hồ chứa đóng góp khoảng 14% sản lượng dầu thô của nước này. Vào tháng 1, sản lượng của vùng Vịnh đạt 1,7 triệu thùng dầu mỗi ngày, so với kỷ lục trước đại dịch là 2 triệu thùng/ngày. Sản lượng dầu hiện đạt 11,8 triệu thùng/ngày, cách xa kỷ lục trước đại dịch là 13,1 triệu thùng/ngày.
Nhưng thật không may, bức tranh toàn cầu không đẹp, khi các nhà phân tích dự đoán rằng sẽ mất nhiều năm để ngành dầu khí toàn cầu phục hồi hoàn toàn – nếu có.
Số lượng các phát hiện mới ngoài khơi trên toàn thế giới đã giảm xuống mức thấp nhất trong 75 năm sau khi các công ty dầu mỏ cắt giảm ngân sách của họ cho việc thăm dò vùng nước sâu. Sự sụp đổ của thị trường dầu mỏ năm 2020 đã ảnh hưởng nặng nề đến các nhà sản xuất dầu lớn, buộc các công ty dầu khí toàn cầu phải cắt giảm vốn đầu tư thêm 100 tỷ USD, tương đương khoảng 30%, xuống mức thấp nhất trong 13 năm. Tuy nhiên, chính các công ty khoan ngoài khơi mới phải gánh chịu toàn bộ gánh nặng của việc cắt giảm, khi chỉ một phần năm dự án được đánh giá là có khả năng tiến hành vào năm 2021, đi đúng tiến độ.
Một số việc trì hoãn khoan ngoài khơi nổi tiếng bao gồm việc đình chỉ dự án Rovuma LNG trị giá hàng tỷ đô la của ExxonMobil (NYSE: XOM) ở Mozambique; hoãn dự án khí ngưng tụ nhiều tỷ đô la Greater Tortue Ahmeyim của BP Plc-Kosmos Energy (NYSE: KOS) ngoài khơi Senegal và Mauritania, đình chỉ dự án Equinor (NYSE: EQNR) -Husky Energy (TSE: HSE) Bay du Nord ngoài khơi ở phía đông Canada và Woodside Petroleum của Australia (ASX: WPL) đang đẩy lùi Quyết định đầu tư cuối cùng (FID) cho dự án khí đốt Scarborough.
Nhưng ngay cả khi ngành này phục hồi sau đại dịch, đầu tư cho dầu ngoài khơi trên toàn cầu dự kiến chỉ tăng 7% lên 155 tỷ USD trong năm nay, so với mức tăng 18% vào đầu tư đá phiến, theo công ty tư vấn Rystad Energy. Vấn đề lớn ở đây là các dự án ngoài khơi trị giá hàng tỷ USD và hiếm khi đi vào hoạt động trong vòng dưới một thập kỷ. Những lo lắng rằng giá dầu thô cao hiện nay sẽ không kéo dài, cùng với thực tế là việc khoan dầu ngoài khơi tốn kém và tốn thời gian, khiến cho các dự án ngoài khơi trở nên khó bán.
Vẫn chưa rõ khi nào – hoặc liệu – các công ty khai thác dầu ngoài khơi có thể có được các hợp đồng thuê mới ở vùng Vịnh từ chính quyền Biden khi hợp đồng 5 năm hiện tại hết hạn vào ngày 30 tháng 6. Theo Hiệp hội Công nghiệp Đại dương Quốc gia, sản lượng vùng Vịnh có thể giảm một nửa vào năm 2040 nếu hợp đồng thuê đất khai thác vẫn bị dừng.
Tuy nhiên, các nhà sản xuất vùng Vịnh đang thay đổi chiến lược để ứng phó với thực tế mới.
Trước hết, các nhà sản xuất đang ngày càng chuyển sang các thiết kế nhỏ hơn và các dây buộc dưới đáy biển, thay vì khởi động các siêu dự án để phát hiện ở những vùng nước sâu xa bờ.
Theo Colin White, nhà phân tích dầu ngoài khơi của Rystad, các công ty khai thác đang chuyển sang chiến lược thăm dò dựa trên cơ sở hạ tầng vì Vịnh Mexico đã có rất nhiều cơ sở hạ tầng.
Hơn nữa, nhiều gã khổng lồ đang ngày càng nhìn xa hơn Vịnh Mexico: Exxon Mobil và Hess Corp. (NYSE: HES) đã có những phát hiện quan trọng ở Guyana trong khi TotalEnergies (NYSE: TOT) và APA Corp. (NYSE: APA) đang phát triển mạnh mẽ phát triển ở Suriname lân cận. Trong khi đó, Shell đã có một phát hiện lớn ở Đại Tây Dương nằm ngoài khơi Namibia.
Nguồn tin: xangdau.net
Trả lời