Phiên giao dịch 17/1 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 18/1 giờ VN), giá hầu hết các hàng hóa chủ chốt vững hoặc tăng nhẹ.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô tăng do lượng dự trữ của Mỹ dự báo sẽ giảm tuần thứ chín liên tiếp.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent tăng 23 US cent lên 69,38 USD/thùng, trong khi giá dầu ngọt nhẹ (WTI) tăng 24 US cent lên 63,97 USD/thùng.
Theo kết quả thăm dò của hãng tin Reuters, lượng dầu dự trữ của Mỹ trong tuần kết thúc vào ngày 12/1 dự đoán giảm 3,5 triệu thùng. Viện Dầu mỏ Mỹ (API) mới đây cũng công bố số liệu cho biết lượng dầu dự trữ của Mỹ giảm 5,1 triệu thùng trong tuần trước, trong khi lượng xăng dự trữ tăng 1,8 triệu thùng, ít hơn dự đoán.
Nếu số liệu chính thức được Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) công bố đúng như số liệu của API, đây sẽ là tuần thứ chín liên tiếp lượng dầu dự trữ của Mỹ sụt giảm.
Bên cạnh đó, việc phiến quân Nigeria đe dọa tấn công vào các cơ sở khai thác dầu ở ngoài khơi trong vài ngày tới cũng là yếu tố hỗ trợ cho giá dầu.
Bộ trưởng Dầu mỏ Iraq Jabar al-Luaibi cho biết sản lượng dầu mỏ của nước này đạt gần 5 triệu thùng/ngày, nhưng Iraq vẫn tuân thủ hoàn toàn với mục tiêu sản lượng theo hiệp ước cắt giảm nguồn cung toàn cầu. Ông đề xuất OPEC và các nước sản xuất ngoài OPEC nên tiếp tục thỏa thuận cắt giảm sản lượng.
Thị trường dầu dần trở nên cân đối cung –cầu nhờ thỏa thuận cắt giảm sản lượng của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và Nga, và nhu cầu dầu hồi phục.
Tổng thư ký OPEC Mohammad Barkindo nhận định năm 2018 sẽ chứng kiến sự tái cân bằng cung – cầu trên thị trường “vàng đen” thế giới. Ông khẳng định một thị trường “vàng đen” với cung – cầu cân bằng là nhân tố sẽ giúp đưa các mức giá dầu trở lại hợp lý, có lợi cho cả nhà sản xuất và nước tiêu thụ cũng như thúc đẩy hoạt động đầu tư vào lĩnh vực dầu mỏ.
Tổng thư ký OPEC đánh giá cao việc thực hiện cam kết cắt giảm sản lượng của các nhà sản xuất trong suốt năm 2017, khẳng định rằng các nhà sản xuất tham gia thỏa thuận chắc chắn sẽ tiếp tục thực thi cam kết của mình trong năm 2018.
Ông nhấn mạnh thỏa thuận cắt giảm sản lượng của OPEC không nhắm tới một mức giá cụ thể nào, mà là hướng tới một loạt mục tiêu, trong đó quan trọng nhất là đạt được sự ổn định trên thị trường dầu mỏ toàn cầu và giải quyết vấn đề dư cung.
Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo sự suy giảm quy mô đầu tư vào ngành dầu mỏ trong những năm qua đang đe dọa các nguồn cung tương lai.
Giới phân tích cho rằng thị trường dầu có thể chịu áp lực giảm giá từ sản lượng của Mỹ gia tăng. EIA mới đây dự đoán sản lượng dầu Mỹ sẽ tăng lên trong tháng Hai, khi sản lượng dầu đá phiến tăng 111.000 thùng/ngày lên 6,55 triệu thùng/ngày.
Sản lượng dầu Mỹ được dự đoán sẽ sớm vượt ngưỡng 10 triệu thùng/ngày, qua đó thách thức cả những quốc gia sản xuất dầu hàng đầu như Nga và Saudi Arabia.
Dự kiến, đại diện của các nhà sản xuất trong và ngoài OPEC sẽ có cuộc họp quan trọng tại Oman vào ngày 21/1 tới để đánh giá việc thực thi thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu thô, nhân tố vốn đã giúp giá dầu mỏ hiện nay tăng lên khoảng 65 USD/thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng duy trì quanh mức cao nhất 4 tháng trong bối cảnh đồng USD giảm giá so với rổ các đồng tiền chủ chốt.
Giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.339,44 USD/ounce, áp sát mức cao nhất kể từ phiên 8/9/2017 là 1.344,44 USD/ounce ghi được trong ngày đầu tuần.
Giá vàng giao tháng 2/2018 tăng 0,2% lên 1.339,2 USD/ounce.
Giá vàng đã tăng 8% kể từ giữa tháng 12/2017, do đồng bạc xanh sụt giảm.
Michael Matousek, nhà giao dịch trưởng thuộc U.S. Global Investors tại San Antonio, Mỹ, nhận định đồng Euro đang dẫn dắt đồng USD, yếu tố này góp phần chi phối giá vàng.
Về dài hạn, giá vàng được cho là sẽ nhận hỗ trợ từ nguy cơ giá cổ phiếu toàn cầu rời khỏi các mức cao kỷ lục và tăng trưởng mạnh tại khắp nơi trên thế giới có thể đẩy lạm phát tăng.
Với những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,1% xuống 17,17 USD/ounce; giá bạch kim tăng 0,7% lên 1.005,60 USD/ounce sau khi tăng chạm mức cao nhất kể từ phiên 8/9/2017 1.006,60 USD/ounce; giá palađi tăng 2,1% lên 1.116,47 USD/ounce, áp sát mức cao kỷ lục 1.138 USD/ounce thiết lập trong phiên 15/1 vừa qua.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 3 tăng 2,65 US cent tương đương 2,2% lên 1,231 USD/lb, trong phiên có lúc giá chạm 1,238 USD.
Nhu cầu mới từ các nhà rang xay và dự trữ giảm tại Mỹ và châu Âu hỗ trợ giá tăng lên.
Robusta giao tháng 3 giá tăng mạnh 42 USD tương đương 2,4% lên 1.769 USD/tấn.
Trái với cà phê, giá đường giảm, với đường thô giao tháng 3 giá giảm 0,17 US cent tương đương 1,3% xuống 13,42 US cents/lb, trong phiên có lúc giá xuống 13,35 US cent, mức thấp nhất kể từ 29/9. Đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 2,5 USD tương đương 0,7% xuống 360,90 USD/tấn.
Hàng hóa |
ĐVT |
Giá |
/- |
/-(%) |
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
63,97 |
0,24 |
0,43% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
69,38 |
0,23 |
0,41% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
45.380,00 |
410,00 |
0,91% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
3,24 |
0,01 |
0,19% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
187,20 |
1,36 |
0,73% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
206,99 |
0,08 |
0,04% |
Dầu khí |
USD/tấn |
613,50 |
1,00 |
0,16% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
60.490,00 |
660,00 |
1,10% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1.339,10 |
14,10 |
1,05% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4.731,00 |
-10,00 |
-0,21% |
Bạc New York |
USD/ounce |
16,97 |
-0,20 |
-1,14% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
60,90 |
-0,50 |
-0,81% |
Bạch kim giao ngay |
USD/t oz. |
997,88 |
2,66 |
0,27% |
Palladium giao ngay |
USD/t oz. |
1.113,96 |
2,53 |
0,23% |
Đồng New York |
US cent/lb |
319,50 |
0,60 |
0,19% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
7.034,00 |
-44,00 |
-0,62% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.192,00 |
3,00 |
0,14% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
3.367,50 |
-37,00 |
-1,09% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
20.495,00 |
25,00 |
0,12% |
Ngô |
US cent/bushel |
352,75 |
-0,25 |
-0,07% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
422,25 |
0,75 |
0,18% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
256,00 |
1,75 |
0,69% |
Gạo thô |
USD/cwt |
12,21 |
0,06 |
0,45% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
968,25 |
-0,50 |
-0,05% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
324,60 |
0,30 |
0,09% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
32,44 |
-0,07 |
-0,22% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
489,50 |
-0,20 |
-0,04% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
1.985,00 |
53,00 |
2,74% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
123,10 |
2,65 |
2,20% |
Đường thô |
US cent/lb |
13,42 |
-0,17 |
-1,25% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
140,00 |
-0,40 |
-0,28% |
Bông |
US cent/lb |
82,14 |
0,71 |
0,87% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
— |
— |
— |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
476,40 |
1,70 |
0,36% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
210,60 |
1,10 |
0,53% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
1,38 |
0,00 |
0,07% |
Nguồn tin: vinanet.vn
Trả lời