Phiên giao dịch 20/6 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 21/6 giờ VN), giá một số hàng hóa chủ chốt đã lập “kỷ lục” thấp.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất 9 tháng do những lo ngại về nguồn cung dư thừa trên toàn cầu tiếp tục gây sức ép lên thị trường.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 7/2017 trên sàn New York đã giảm 0,97 USD xuống còn 43,23 USD/thùng; giá dầu Brent giao tháng 8/2017 trên sàn London giảm 0,89 USD xuống 46,02 USD/thùng.
Sản lượng dầu của Libya đã tăng hơn 50.000 thùng/ngày lên 885.000 thùng/ngày sau khi công ty dầu mỏ quốc doanh của nước này giải quyết tranh chấp với công ty Wintershall của Đức. Trong khi đó, nguồn cung dầu của Nigeria cũng tăng, và dự kiến xuất khẩu dầu thô (Bonny Light) của nước này sẽ đạt 226.000 thùng/ngày trong tháng 8/2017, tăng so với mức ước vào khoảng 164.000 thùng/ngày trong tháng 7/2017.
Ngoài ra, lo ngại về sản lượng dầu ở Mỹ tăng cũng gây áp lực cho giá dầu. Một số cơ quan theo dõi năng lượng của Mỹ đã dự báo sản lượng dầu thô của nước này sẽ còn tăng cho đến năm sau.
Thỏa thuận cắt giảm nguồn cung của OPEC và Nga, có hiệu lực từ tháng 1/2017, chưa thể đưa sản lượng dầu toàn cầu về dưới mức trung bình 5 năm.
Ngân hàng Morgan Stanley cho biết tồn kho dầu tại các nước thuộc Tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát triển (OECD), Trung Quốc và một số nước không thuộc OECD đã tăng khoảng 1 triệu thùng/ngày trong quý I.
Phil Flynn, chuyên gia phân tích thị trường cao cấp tại Price Futures Group, nhận định rằng, giá giá dầu bước vào chu kỳ giảm và sẽ còn tiếp tục xu hướng này. Khi đó, các công ty khai thác đá phiến Mỹ sẽ phải co giảm hoạt động.
Giá dầu được dự báo lùi về mốc 40 USD/thùng và có thể giảm xuống gần mức 30 USD/thùng, theo John Kilduff, thành viên sáng lập tại quỹ đầu cơ năng lượng Again Capital, nói với CNBC.
Đồ thị giá dầu Brent
Đồ thị giá dầu WTI
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất 5 tuần do USD tăng. Có nhiều dấu hiệu cho thấy Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có khả năng sẽ tiếp tục nâng lãi suất trong thời gian tới.
Trên Sàn giao dịch kim loại New York (COMEX), giá vàng giao ngay giảm 0,03% xuống 1.242,36 USD/ounce. Trước đó, giá kim loại quý này có lúc đã rơi xuống mức thấp nhất kể từ ngày 17/5 là 1.241 USD/ounce. Giá vàng giao kỳ hạn tháng 8/2017 cũng giảm 0,26% xuống chốt phiên ở mức 1.243,5 USD/ounce.
Giá vàng khá nhạy cảm với chính sách tiền tệ của Mỹ, do lãi suất tăng sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng, đồng thời làm đồng USD tăng giá khiến kim loại quý này trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác.
Trái ngược với xu hướng suy giảm của giá vàng, đồng USD tiếp tục đi lên trong phiên 20/6. Chỉ số đồng USD – thước đo “sức khỏe” của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – phiên này tăng 0,31% lên 97,81.
Số đơn xin bảo hiểm thất nghiệp tuần qua giảm xuống 237.000 đơn so với mức 241.000 đơn dự kiến và 245.000 đơn thực tế kỳ trước.
Theo báo cáo của Cục Thống kê Hoa kỳ, chỉ số giá sản xuất lõi (Core PPI m/m) của Mỹ có tín hiệu tốt cho nền kinh tế khi đạt mức 0,3% cao hơn mức 0,2% dự kiến, cho thấy giá thành hàng hóa và dịch vụ không bao gồm lương thực và năng lượng các nhà sản xuất bán ra tăng. Tuy nhiên, chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ lại giảm xuống -0,1% so với mức 0,2% kế hoạch. Chỉ số giá bán lẻ không bao gồm ô tô cũng giảm xuống mức -0,3% thấp hơn mức 0,2% dự báo. Chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ giảm không kích thích kinh tế Mỹ phát triển. Lạm phát của Mỹ chỉ đạt 0,5% so với 0,7% dự kiến, cho thấy sức khỏe nền kinh tế Mỹ chưa đạt như kỳ vọng.
Chỉ số giá hàng nhập khẩu giảm xuống -0,3% so với mức 0,1% dự kiến và 0,2% thực tế kỳ trước. Số giấy phép xây dựng nhà ở mới được cấp phép chỉ đạt 1,17 triệu đơn so với mức 1,25 triệu đơn dự kiến và mức 1,23 triệu đơn đạt được kỳ trước, số nhà mới bắ đầu khởi công xây dựng cũng vì thế giảm xuống 1,09 triệu căn so với 1,16 triệu căn kỳ trước đó, kéo theo lao động trong ngành xây dựng giảm theo. Chỉ số niềm tin của người tiêu dùng theo khảo sát đã giảm xuống 94.5 điểm thay vì 97.2 điểm kỳ vọng.
Đầu tuần này, chủ tịch chi nhánh của Fed ở New York William Dudley nhận định rằng một khi thị trường lao động cải thiện sẽ giúp thúc đẩy lạm phát đi lên, qua đó thúc đẩy Fed nâng lãi suất. Theo công cụ FedWatch của CME Group, các nhà giao dịch tin rằng có 50% cơ hội Fed sẽ nâng lãi suất tiếp trong năm nay.
Trên thị trường các kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 7/2017 đã giảm 0,52% xuống khép phiên ở mức 16,417 USD/ounce. Trong khi giá bạch kim giao cùng thời điểm tăng 0,58% lên 921,5 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica xuống mức thấp nhất 1 năm.
Arabica giao tháng 9 giá giảm 2 US cent tương đương 1,6% xuống 1,246 USD/lb, sau khi có lúc chạm 1,233 USD, mức thấp nhất kể từ tháng 6/2016.
Robusta giao tháng 9 cũng giảm 34 USD vào lúc đongs cửa, tương đương 1,6% xuống 2.074 USD/tấn, từ mức cao kỷ lục 2 tháng là 2.149 USD/tấn đạt được vào thứ 6 tuần trước do lo ngại nguồn cung khan hiếm ở Việt Nam.
Mặt hàng đường đảo chiều tăng giá, với đường thô giao tháng 10 giá tăng 0,15 US cent tương đương 1,1% lên 13,82 US cent/lb, gần mức thấp nhất 16 tháng. Đường trắng giao tháng 8 giá tăng 4,9 USD tương đương 1,2% lên 407,50 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
ĐVT |
Giá |
/- |
/- (%) |
|
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
43,23 |
-0,97 |
-0,13% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
46,02 |
-0,89 |
-0,11% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
32.100,00 |
-580,00 |
-1,77% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
2,90 |
-0,01 |
-0,38% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
142,67 |
0,27 |
0,19% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
139,42 |
-0,07 |
-0,05% |
Dầu khí |
USD/tấn |
415,00 |
2,25 |
0,55% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
46.050,00 |
-520,00 |
-1,12% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1.245,90 |
-2,40 |
-0,19% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4.449,00 |
-13,00 |
-0,29% |
Bạc New York |
USD/ounce |
16,46 |
0,04 |
0,23% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
59,20 |
-0,10 |
-0,17% |
Bạch kim giao ngay |
USD/t oz. |
924,15 |
1,79 |
0,19% |
Palladium giao ngay |
USD/t oz. |
875,36 |
-1,31 |
-0,15% |
Đồng New York |
US cent/lb |
257,25 |
0,05 |
0,02% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
5.657,00 |
-67,00 |
-1,17% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
1.886,50 |
0,00 |
0,00% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.555,00 |
-1,00 |
-0,04% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
19.505,00 |
-45,00 |
-0,23% |
Ngô |
US cent/bushel |
378,00 |
0,00 |
0,00% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
488,25 |
0,50 |
0,10% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
266,50 |
5,25 |
2,01% |
Gạo thô |
USD/cwt |
11,66 |
0,01 |
0,04% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
939,25 |
0,50 |
0,05% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
306,80 |
0,60 |
0,20% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
32,61 |
-0,01 |
-0,03% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
483,40 |
-6,30 |
-1,29% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
1.918,00 |
-16,00 |
-0,83% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
124,60 |
-2,00 |
-1,58% |
Đường thô |
US cent/lb |
13,82 |
0,15 |
1,10% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
133,05 |
-1,85 |
-1,37% |
Bông |
US cent/lb |
68,97 |
-0,07 |
-0,10% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
— |
— |
— |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
363,60 |
-4,60 |
-1,25% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
185,10 |
-5,20 |
-2,73% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
1,53 |
-0,02 |
-1,61% |
Nguồn tin: Vinanet.vn
Trả lời