Phiên giao dịch 26/6 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 27/6 giờ VN), giá dầu và cà phê hồi phục nhẹ, trong khi đường và vàng giảm.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng nhẹ song đà tăng bị hạn chế bởi nguồn cung dầu thô gia tăng tại Mỹ và một số nước khác.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu Brent giao tháng 8/2017 tăng 29 US cent (0,6%) lên 45,83 USD/thùng; dầu thô ngọt nhẹ (WTI) tăng 37 US cent (0,8%) lên 43,38 USD/thùng.
Ric Spooner, chuyên gia phân tích thị trường hàng đầu của trung tâm CMC Markets ở Sydney cho biết, thực tế là thị trường dầu mỏ đã ngừng giảm giá và có một sự hỗ trợ nhỏ từ đồng USD yếu.
Tính chung trong nửa đầu năm 2017, giá dầu Brent vẫn đang hướng tới mức giảm gần 20% trong nửa đầu năm 2017.
Theo số liệu của Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes, các công ty năng lượng Mỹ đã bổ sung thêm 11 giàn khoan trong tuần kết thúc vào ngày 23/6 lên 758 giàn, mức cao nhất kể từ tháng 4/2014.
Kể từ năm 2016 đến nay, sản lượng dầu khí đá phiến của Mỹ tăng khoảng 10%, với số giàn khoan dầu đang hoạt động tại Mỹ đạt mức cao nhất trong hơn ba năm qua.
Theo ông Gene McGillian, phụ trách nghiên cứu thị trường tại Tradition Energy ở Stamford tại Connecticut, sản lượng dầu của Mỹ có thể tăng lên 10-10,5 triệu thùng/ngày vào cuối năm 2017.
Như vậy, nếu tính thêm sản lượng dầu của Libya, Nigeria và khu vực Biển Bắc thì hiệu quả của những nỗ lực cắt giảm sản lượng dầu – do Saudi Arabia khởi xướng nhằm ứng phó tình trạng nguồn cung “vàng đen” dư thừa – sẽ không lớn như mong đợi.
Theo nhận định của các nhà phân tích ở Bank of America-Merrill Lynch, nhu cầu đã tăng không đủ nhanh để có thể “hấp thụ” sản lượng dầu dư thừa.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất 6 tuần do một lệnh bán ra với số lượng lớn trên sàn giao dịch, song những bất ổn địa chính trị đã giúp vàng không bị mất giá thêm
Trên Sàn New York, giá vàng giao ngay giảm 0,9% xuống 1.244,82 USD/ounce, trong phiên có lúc rơi xuống mức thấp nhất kể từ ngày 17/5 là 1,236,46 USD/ounce; vàng giao tháng 8/2017 cũng giảm 0,8% xuống khép phiên tại 1.246,4 USD/ounce, trong phiên có lúc giá đã giảm mạnh 18 USD/ounce xuống mức 1.236,5 USD/ounce, rồi lại tăng thêm 10 USD/ounce chỉ trong vòng 1 phút.
Giới đầu tư nhận định giá vàng vẫn được hỗ trợ bởi những bất ổn địa chính trị trên thế giới, như vấn đề giải cứu hai ngân hàng trên bờ vực phá sản tại Italy, các chính sách của Tổng thống Mỹ Donald Trump và quá trình đàm phán về việc nước Anh ra khỏi Liên minh châu Âu (EU).
Theo ông Afshin Abavi, người phụ trách mảng giao dịch tại công ty MKS tại Thụy Sỹ, lệnh bán ra 18.500 lô vàng với khối lượng 1,85 triệu ounce và 5.500 lô bạc (tương đương 5.000 ounce) trên sàn COMEX trong một thời gian ngắn là lí do dẫn đến sự sụt giá của kim loại quý này.
Thị trường nhận định rằng có người đã phát đi lệnh bán trên một cách nhầm lẫn và phải nhanh chóng thu mua lại vàng trong phiên giao dịch.
Bên cạnh đó đó, nhà giao dịch Joni Teves của công ty UBS cho biết đà mất giá bất ngờ hồi đầu phiên của kim loại quý này càng được nới rộng do thiếu tính thanh khoản vì một số thị trường châu Á đóng cửa nghỉ lễ, trong khi thị trường London mới mở cửa.
Về các kim loại quý khác, giá bạc phiên này giảm 0,5% xuống 16,60 USD/ounce, còn giá bạch kim để mất tới 1,1% xuống 915,95 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô giảm xuống mức thấp nhất16 tháng do thời tiết ở Brazil khô dần thuận lợi cho sản xuất đường. Đường thô giao tháng 10 giá giảm 0,32 US cent tương đương 2,4% xuống 12,85 US cent/lb, trong phiên có lúc giá xuống mức thấp nhất kể từ tháng 2/2016 là 12,82 US cent. Đường trắng giao tháng 8 giá giảm 8,7 USD tương đương 2,2% xuống 386,80 USD/tấn.
Cà phê tăng giá trong phiên vừa qua, với arabica tăng 1,5 US cent tương đương 1,2% lên 1,245 USD/lb; robussta giao tháng 9 giá tăng 12 USD tương đương 0,6% lên 2.090 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
ĐVT |
Giá |
/- |
/- (%) |
|
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
43,38 |
0,37 |
-0,8% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
45,83 |
0,92 |
-0,6% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
32.180,00 |
100,00 |
0,31% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
3,04 |
0,01 |
0,33% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
144,20 |
0,33 |
0,23% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
138,05 |
0,03 |
0,02% |
Dầu khí |
USD/tấn |
411,50 |
2,00 |
0,49% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
46.360,00 |
180,00 |
0,39% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1.243,40 |
-3,00 |
-0,24% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4.468,00 |
-11,00 |
-0,25% |
Bạc New York |
USD/ounce |
16,58 |
-0,06 |
-0,34% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
59,70 |
0,00 |
0,00% |
Bạch kim giao ngay |
USD/t oz. |
917,83 |
-0,12 |
-0,01% |
Palladium giao ngay |
USD/t oz. |
869,51 |
-1,56 |
-0,18% |
Đồng New York |
US cent/lb |
262,75 |
-1,10 |
-0,42% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
5.794,50 |
-6,00 |
-0,10% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
1.862,00 |
-3,00 |
-0,16% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.719,00 |
15,00 |
0,55% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
19.290,00 |
65,00 |
0,34% |
Ngô |
US cent/bushel |
368,00 |
0,75 |
0,20% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
465,75 |
0,25 |
0,05% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
257,00 |
0,25 |
0,10% |
Gạo thô |
USD/cwt |
11,46 |
0,00 |
-0,04% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
917,25 |
3,50 |
0,38% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
298,80 |
0,80 |
0,27% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
32,09 |
0,10 |
0,31% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
475,00 |
0,90 |
0,19% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
1.845,00 |
-34,00 |
-1,81% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
124,50 |
1,50 |
1,22% |
Đường thô |
US cent/lb |
12,85 |
-0,32 |
-2,43% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
139,80 |
7,55 |
5,71% |
Bông |
US cent/lb |
67,53 |
0,30 |
0,45% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
— |
— |
— |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
360,90 |
-2,80 |
-0,77% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
191,80 |
1,70 |
0,89% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
1,50 |
0,01 |
0,40% |
Nguồn tin: Vinanet.vn
Trả lời