Phiên giao dịch 30/5 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 31/5 giờ VN), giá dầu và vàng đều giảm nhẹ, trong khi đường và ngũ cốc đồng loạt giảm mạnh.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do lo ngại sản lượng từ Libya sẽ góp phần làm gia tăng tình trạng dư cung và nỗ lực cắt giảm sản lượng hơn nữa của các nước sản xuất lớn có thể không đủ để giải quyết vấn đề dư thừa vốn đã gây giảm giá suốt gần 3 năm nay.
Dầu Brent đóng cửa phiên giao dịch trên sàn London giảm 45 US cent tương đương 0,9% xuống 51,84 USD/thùng, trong khi dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên sàn New York giảm 14 US cent tương đương 0,3% xuống 49,66 USD/thùng.
Sản lượng của Libya hiện đang ở mức 784.000 thùng/ngày do vấn đề kỹ thuật ở giếng Sharara, nhưng dự báo sẽ bắt đầu tăng lên 800.000 thùng/ngày từ 30/5/2017.
Mùa du lịch của Mỹ thường được đánh dấu từ Ngày Tưởng niệm hàng năm (năm nay rơi vào 29/5). Tuy nhiên, mối lo ngại dai dẳng về tình trạng dư thừa nguồn cung tiếp tục đeo bám giới đầu tư, khiến giá “vàng đen” đảo chiều hạ nhẹ vào cuối phiên.
Theo báo cáo của công ty dịch vụ dầu khí Baker Hughes, số giàn khoan dầu đang hoạt động tại Mỹ trong tuần trước đã tăng lên 722 chiếc (mức cao nhất kể từ tháng 4/2015), đánh dấu tuần tăng thứ 19 liên tiếp – đợt tăng dài nhất từ trước tới nay.
Dù cho các nước trong và ngoài Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đã đạt được thỏa thuận về việc gia hạn chương trình cắt giảm sản lượng 1,8 triệu thùng/ngày tới hết quý I/2018, song thị trường dầu mỏ vẫn chưa thể khởi sắc khi nhiều người vẫn còn hoài nghi về hiệu quả của kế hoạch này trong việc thắt chặt nguồn cung và vực dậy giá dầu. Ngân hàng Goldman Sachs thậm chí còn dự báo rằng từ năm 2018, giá dầu sẽ tiếp tục chịu sức ép giảm do Mỹ và OPEC đồng loạt nâng sản lượng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm khỏi mức cao nhất 1 tháng do khả năng Fed nâng lãi suất vào tháng tới.
Vàng giao ngay trong phiên có lúc đạt mức cao nhất 1 tháng là 1.270,47 USD nhưng đã giảm nhẹ 0,3% vào lúc đóng cửa, về mức 1.262,76 USD/ounce; vàng giao sau giá giảm 0,5% xuống 1.262,1 USD.
Chi tiêu tiêu dùng ở Mỹ tháng 4 tăng mạnh nhất trong vòng 4 tháng, và lạm phát cũng tăng, cho thấy nhu cầu trong nước có thể tăng đủ mạnh để Cục Dự trữ Liên bang xem xét việc tiếp tục nâng lãi suất ngay trong phiên họp tháng 6.
Những phiên giao dịch gần đây, giới đầu tư chuyển hướng sang các tài sản an toàn do căng thẳng địa chính trị diễn ra trên toàn cầu. Điều này làm giảm sức hấp dẫn của các kênh đầu tư mạo hiểm và tạo lợi thế cho mặt hàng phi lãi suất như vàng.
Tình hình bất ổn địa chính trị trên toàn cầu đang ngày càng trở nên căng thẳng hơn khi cuộc tổng tuyển cử trước hạn của Anh sắp diễn ra vào tuần tới, sớm hơn kế hoạch gần 3 năm rưỡi. Ngày 26/5 vừa qua, các đảng phái chính trị tại Anh đã nối lại chiến dịch vận động tranh cử sau vài ngày tạm dừng do vụ đánh bom liều chết ở Manchester mà tổ chức “Nhà nước Hồi giáo” (IS) tự xưng đã nhận tiến hành. Ngoài ra, khả năng tiến hành bầu cử sớm tại Italy và lo ngại về vấn đề nợ công tại Hy Lạp cũng khiến các nhà đầu tư thận trọng, qua đó hỗ trợ giá vàng đi lên.
Kết quả thăm dò dư luận của hãng truyền hình ITV (Anh) công bố ngày 29/5 cho thấy, đảng Bảo thủ cầm quyền của Thủ tướng Anh Theresa May vẫn đang dẫn trước các đối thủ cực tả, song khoảng cách chênh lệch của đảng này với Công đảng của Chủ tịch Jeremy Corbyn đã rút xuống còn 6%, với tỷ lệ tương ứng là 43% và 37%. Đây là một cách biệt tương đối sít sao, được cho là liên quan trực tiếp đến vụ tấn công khủng bố ở thành phố Manchester và việc nước này đảo chiều các chính sách phúc lợi xã hội.
Trong khi đó, việc các Bộ trưởng tài chính Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) không đạt được thỏa thuận giảm nợ cho Hy Lạp cũng như giải ngân gói cho vay mới dành cho Athens cũng khiến tình hình địa chính trị trên toàn cầu càng trở nên căng thẳng.
Trên thị trường nông sản, giá đường xuống mức thấp nhất 13 tháng, trong khi giá cacao tăng mạnh.
Đường thô giao tháng 7 giá giảm 0,03 US cent tương đương 0,2% xuống 15,02 UScent/lb, trong phiên có lúc giá chỉ 14,73 US cent, thấp nhất kể từ tháng 4/2016 do thời tiết thuận lợi và Brazil – nước sản xuất lớn nhất thế giới – gần đây giảm giá gasoline, trong khi triển vọng sản lượng ở Ấn Độ – nước sản xuất lớn thứ 2 thế giới – cũng được cải thiện. Đường trắng giao tháng 8 giá giảm 80 US cent tương đương 0,18% xuống 438,40 USD/tấn, trong phiên có lúc giá cũng xuống 433 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 4/2016.
Trái lại, cà phê và cacao đều tăng giá mạnh. Robusta giao tháng 7 giá tăng 19 USD tương đương 0,95% lên mức cao nhất 3 tuần là 2.025 USD/tấn, còn arabica giao cùng kỳ hạn tăng 0,9 US cent tương đương 0,69% lên 1,321 USD/lb.
Trên thị trường ngũ cốc, đậu tương cũng xuống mức giá thấp nhất 14 tháng do nỗi lo về thời tiết ở Mỹ đã giảm đi rất nhiều. Ngô và lúa mì cũng giảm theo xu hướng giá đậu tương.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa |
ĐVT |
Giá |
/- |
/- (%) |
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
49,66 |
-0,14 |
-0,08% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
51,84 |
-0,45 |
-0,94% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
35.870,00 |
-190,00 |
-0,53% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
3,15 |
0,00 |
0,00% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
163,89 |
-0,37 |
-0,23% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
154,94 |
-1,39 |
-0,89% |
Dầu khí |
USD/tấn |
457,25 |
-8,75 |
-1,88% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
49.680,00 |
-150,00 |
-0,30% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1.264,50 |
-1,20 |
-0,09% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4.485,00 |
-22,00 |
-0,49% |
Bạc New York |
USD/ounce |
17,35 |
-0,08 |
-0,44% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
61,70 |
-0,20 |
-0,32% |
Bạch kim giao ngay |
USD/t oz, |
940,54 |
1,45 |
0,15% |
Palladium giao ngay |
USD/t oz, |
806,88 |
-0,60 |
-0,07% |
Đồng New York |
US cent/lb |
256,60 |
0,20 |
0,08% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
5.656,00 |
-1,50 |
-0,03% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
1.926,00 |
-25,00 |
-1,28% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.625,00 |
-15,00 |
-0,57% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
20.435,00 |
10,00 |
0,05% |
Ngô |
US cent/bushel |
367,00 |
-7,25 |
-1,94% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
429,50 |
-8,75 |
-2,00% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
242,25 |
-2,00 |
-0,82% |
Gạo thô |
USD/cwt |
11,19 |
0,21 |
1,91% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
912,75 |
-13,75 |
-1,48% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
297,60 |
-4,20 |
-1,39% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
31,42 |
-0,18 |
-0,57% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
502,80 |
-9,40 |
-1,84% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
2.037,00 |
126,00 |
6,59% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
132,10 |
0,90 |
0,69% |
Đường thô |
US cent/lb |
15,02 |
-0,03 |
-0,20% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
136,45 |
-2,15 |
-1,55% |
Bông |
US cent/lb |
72,75 |
-0,04 |
-0,05% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
— |
— |
— |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
346,80 |
-7,40 |
-2,09% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
207,80 |
0,10 |
0,05% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
1,54 |
0,01 |
0,39% |
Nguồn tin: Vinanet.vn
Trả lời