Phiên giao dịch 15/11 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 16/11 giờ VN), giá dầu thô, vàng, đường, cà phê arabica… đồng loạt giảm.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau báo cáo cho thấy lượng dầu dự trữ hàng tuần của Mỹ tăng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 12/2017 trên sàn New York giảm 0,37 USD xuống 55,33 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 1/2018 trên sàn London giảm 0,34 USD xuống 61,87 USD/thùng tại London.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết, lượng dự trữ dầu của nước này tăng 1,9 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 10/11 lên 459,0 triệu thùng, ngược với giới phân tích trong một thăm dò của Reuters dự đoán giảm 2,2 triệu thùng. Nguyên nhân do sản lượng dầu thô và dầu lọc tăng.
Sản lượng dầu thô hàng tuần tăng lên kỷ lục mới kể từ khi EIA theo dõi số liệu hàng tuần vào năm 1983, đạt 9,65 triệu thùng/ngày. Số liệu này vẫn chưa đạt mức kỷ lục hàng tháng thiết lập trong những năm 1970 khi sản lượng dầu thô vượt 10 triệu thùng/ngày. Số liệu sản lượng hàng tuần có xu hướng dao động, trong khi số liệu hàng tháng của EIA được các thương nhân cho là đáng tin cậy hơn, tuy nhiên sản lượng của Mỹ cho thấy quanh 9,2 triệu thùng/ngày.
Theo các nhà phân tích, kho dự trữ dầu của Mỹ tăng cùng với triển vọng nhu cầu toàn cầu giảm khiến các nhà đầu tư trở nên quan ngại hơn về tình trạng dư cung trên thế giới.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đã hạ dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ toàn cầu khoảng 100.000 thùng mỗi ngày cho cả năm 2017 và 2018. Theo IEA, tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ toàn cầu có thể tăng chậm hơn trong những tháng tới, do thời tiết ấm hơn làm giảm tiêu dùng, điều này có thể đưa thị trường trở lại dư thừa trong nửa đầu năm tới.
Trong báo cáo thị trường dầu mỏ hàng tháng IEA đã giảm dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ 100.000 thùng/ngày cho năm nay và năm tới, xuống ước tính 1,5 triệu thùng/ngày trong năm 2017 và 1,3 triệu thùng/ngày trong năm 2018.
Tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ toàn cầu dường như chậm lại xuống 1,3 triệu thùng/ngày trong quý 3 năm nay, một phần do ảnh hưởng của bão Harvey và Irma trong tháng 8 và tháng 9 tới tiêu thụ của Mỹ. Tăng trưởng được dự kiến 1,4 triệu thùng/ngày trong ba quý cuối năm nay, ngay cả khi nhiệt độ ôn hòa và giá tăng sẽ hạn chế nhu cầu.
Đe dọa lớn nhất tới cân bằng thị trường, bên cạnh việc giảm nhu cầu là tăng trưởng trong nguồn cung từ các quốc gia ngoài OPEC.
Ngay cả sau khi giảm tăng trưởng sản lượng, sản lượng của các quốc gia ngoài OPEC sẽ tiếp tục tăng 700.000 thùng/ngày trong năm nay, tăng 1,4 triệu thùng/ngày trong năm 2018 và tăng trưởng nhu cầu của năm tới sẽ khó khăn để phù hợp với số liệu này. Đó là lý do tại sao vắng mặt bất kỳ phí bảo hiểm địa chính trị nào chúng ta không thể thấy một mức bình thường mới cho giá dầu.
Việc sử dụng một kịch bản theo đó mức sản lượng của OPEC hiện nay được duy trì, thị trường dầu mỏ đối mặt với một thách thức quan trọng trong quý 1/2018, với nguồn cung dự kiến vượt nhu cầu 600.000 thùng/ngày, sau đó dư thừa ít hơn khoảng 200.000 thùng/ngày trong quý 2/2018.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm nhẹ do USD tăng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 1.277,51 USD/ounce, vàng giao tháng 12/2017 giảm 5,2 USD, tương đương 0,41%, xuống còn 1.277,70 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD, thước đo giá trị của đồng USD so với sáu đồng tiền chủ chốt khác, đã ở sát mức cao nhất trong ngày 15/11 là 93,895. Giá vàng và đồng USD thường biến động trái chiều.
Tuy vậy, các thị trường tài chính cũng lo ngại hơn về triển vọng Mỹ thông qua kế hoạch cải cách thuế vào cuối năm, làm tăng thêm sự bất ổn trên thị trường chứng khoán, từ đó có lợi cho giá vàng vốn được coi là tài sản đầu tư an toàn.
Trong khi đó, giá bạc giao tháng 12/2017 chốt phiên giao dịch 15/11 giảm 10,2 xu Mỹ, tương đương 0,6%, xuống 16,971 USD/ounce. Còn giá bạch kim giao tháng 1/2017 chốt phiên với mức tăng 5,8 USD, tương đương 0,63%, lên 933,1 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường tiếp tục giảm, với đường thô giao tháng 3 giảm 0,01 US cent tương đương 0,07% xuống 15,09 US cent/lb, đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 2 USD tương đương 0,5% xuống 390,80 USD/tấn.
Cà phê tiếp tục biến động trái chiều, robusta giao tháng 1 tăng 11 USD tương đương 0,6% lên 1.847 USD/tấn, trong khi arabica giao tháng 3 giảm 0,35 US cent tương đương 0,3% xuống 1,301 USD/lb.
Hàng hóa |
ĐVT |
11/11 |
/- |
/- (%) |
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
55,30 |
-0,03 |
-0,05% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
61,87 |
-0,34 |
-0,55% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
41.770,00 |
260,00 |
0,63% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
3,09 |
0,01 |
0,45% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
173,85 |
-0,03 |
-0,02% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
191,00 |
0,13 |
0,07% |
Dầu khí |
USD/tấn |
556,00 |
5,50 |
1,00% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
57.170,00 |
170,00 |
0,30% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1.277,30 |
-0,40 |
-0,03% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4.630,00 |
-18,00 |
-0,39% |
Bạc New York |
USD/ounce |
16,96 |
-0,01 |
-0,06% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
62,00 |
0,20 |
0,32% |
Bạch kim giao ngay |
USD/t oz. |
931,67 |
0,40 |
0,04% |
Palladium giao ngay |
USD/t oz. |
988,42 |
2,28 |
0,23% |
Đồng New York |
US cent/lb |
305,65 |
0,20 |
0,07% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
6.773,00 |
14,00 |
0,21% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.106,00 |
24,00 |
1,15% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
3.151,50 |
0,50 |
0,02% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
19.335,00 |
-135,00 |
-0,69% |
Ngô |
US cent/bushel |
338,25 |
0,75 |
0,22% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
437,75 |
-7,50 |
-1,68% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
269,25 |
-7,00 |
-2,53% |
Gạo thô |
USD/cwt |
12,09 |
0,59 |
5,13% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
976,25 |
8,50 |
0,88% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
313,40 |
1,10 |
0,35% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
34,88 |
0,72 |
2,11% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
519,20 |
6,60 |
1,29% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
2.129,00 |
-26,00 |
-1,21% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
130,10 |
-0,35 |
-0,27% |
Đường thô |
US cent/lb |
15,09 |
-0,01 |
-0,07% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
163,00 |
1,60 |
0,99% |
Bông |
US cent/lb |
68,84 |
0,19 |
0,28% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
— |
— |
— |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
449,40 |
-3,10 |
-0,69% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
194,00 |
1,00 |
0,52% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
1,41 |
0,00 |
0,21% |
Nguồn tin: Vinanet.vn
Trả lời